Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tháng Bảy Mùa Trăng Của Mẹ

10/08/202409:55(Xem: 683)
Tháng Bảy Mùa Trăng Của Mẹ



Ngam Trang Lang Gia-5


THÁNG BẢY MÙA TRĂNG CỦA MẸ
 

Tháng bảy lại về, những người con Phật khắp nơi nao nao chuẩn bị cho mùa hội hiếu. Không biết tự bao giờ nhưng lễ Vu Lan đã ăn sâu vào tâm khảm của mọi người con Việt. Có những người khác đức tin nhưng cũng biết đến lễ Vu Lan. Tạm gác qua những lý luận khác biệt có hay không có lễ Vu Lan trong Phật giáo. Tạm không bàn về những quan điểm khác biệt giữa các tông phái, các dòng truyền thừa. Chúng ta hãy hoan hỷ với tinh thần báo hiếu, ý nghĩa cao đẹp của lễ Vu Lan. Nào chỉ có người Việt, Người Hoa, người Hàn, người Nhật nói chugn là những dân tộc chịu ảnh hưởng văn Hóa Trung Hoa và Phật giáo Bắc truyền đều hân hoan tổ chức lễ Vu Lan. Với các dân tộc Á Đông đã có một thời gian dài sống với Khổng giáo nên rất coi trọng chữ hiếu, con người lấy chữ hiếu làm đầu.

Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình (Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu)

Lễ Vu Lan là sự pha trộn giữa hiếu đạo Nho gia và tinh thần giải thoát của Phật giáo. Thế gian này không có gì cao quý và thiêng liêng bằng tình mẫu tử (tuy nhiên cũng có một thiểu số nghịch tử, ác mẫu). Với người Việt thì tình mẹ con còn ràng buộc chặt chẽ hơn, cái tình máu mủ ruột rà, cái ơn nghĩa mang nặng đẻ đau, chăm bẫm nuôi nấng cả một quảnng đời nó sâu đậm lắm. Có người con nào không thương mẹ? Tuy nhiên người Việt ta thường giữ kín trong lòng chứ ít thố lộ bằng lời, thường hành động chứ ít bày tỏ.

Người Việt không có ngày lễ mẹ, ít khi nào mở miệng nói con thương mẹ như người phương Tây. Bởi vậy mùa Vu Lan là một dịp để bày tỏ tấc lòng, là một dịp báo hiếu, một cơ hội thực hành hiếu đạo.

Lễ Vu Lan về chùa dâng hương lễ Phật, cầu cho mẹ (cha mẹ nói chung) hiện tiền khỏe mạnh, an vui, sống đời lạc đạo. Với cha mẹ và ông bà quá vãng thì siêu sanh cõi an lành, cảnh giới tốt đẹp. Cầu nguyện trong Phật giáo cũng khác với các tôn giáo khác. Phật là bậc giáo ngộ, là người chỉ đường, là ông thầy dẫn đạo. Phật không phải thần linh, thượng đế nên không có ban phước hay giáng tội, bởi vậy cầu nguyện ở đây không phải cầu xin Phật mà là hướng tâm từ, tâm thiện, tâm lành, thiện hạnh đến Phật, hướng về mẹ  (cha mẹ nói chung) hiện tiền, cha mẹ và ôgn bà quá vãng. Cầu nguyện là thực hành giáo lý đã học, cầu nguyện là lễ kính Phật, pháp tăng. Nhớ ơn mẹ cha, cầu nguyện cho mẹ cha thì

Không làm các điều ác

Làm tất cả điều lành

Giữ tâm ý trong sạch (Kinh Pháp Cú)

Cầu nguyện là biết khổ, nguyên nhân khổ, phương cách thoát khổ. Cầu nguyện là thân phải hành chứ không phải nói suông hay trông chờ phép lạ. Phật độ là Phật chỉ con đường đi đến hết khổ, chỉ phương pháp thực hành. Ta không hành, không đi thì Phật cũng không sao độ được cho dù Phật có tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, vô tri vô sở bất tri, vô năng vô sở bất năng...

Mọi người chúng ta thường bận bịu với cuộc sống mưu sinh, vui với bao nhiêu dụ hoặc của lục trần cho nên chẳng mấy khi nhớ Phật, về chùa. Bởi vậy lễ Vu Lan cũng là một cơ duyên nhắc nhở mọi người nhớ Phật về chùa. Nhớ mẹ, cầu nguyện và thực hành lời Phật dạy.

Có không ít người trong chúng ta cả năm chỉ về chùa vào ngày tết, lễ Phật đản và lễ Vu Lan. Ngày tết vui với truyền thống hội hè của dân tộc. Rằm tháng tư thì là kỷ niệm ngày Phật đản sanh. Riêng rằm tháng bảy thì vừa lễ Phật, tạ ơn Phật vừa  nhớ ơn mẹ cha. Trăng rằm thì tháng nào cũng tròn và đẹp, tuy nhiên trăng rằm thángh bảy dường như đẹp hơn, lung linh hơn, tha thiết hơn vì trăng rằm tháng bảy dường như để dành riêng cho mẹ. Dẫu biếtt rằng ngày nào mà ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh thì ngày đó cát tường nhưng ngày rằm tháng bảy dường như  thiêng liêng hơn, nhiệm mầu hơn trong tâm tưởng những người con Phật, vì ấy là lòng hiếu, là đức tin, là hy vọng.

Dẫu biết thời gian vô thủy vô chung, là miên viễn vô cùng tận, không cứ gì tháng bảy mới là mùa hiếu. Sở dĩ có tháng bảy lễ Vu Lan báo hiếu ấy là tạm bám víu vào một điểm để hành, bằng không thì biết đâu để hành khi mà mình còn ràng buộc trong ngũ dục lục trần, còn sanh tử trầm luân, còn vô minh kéo dài. Ngay cái thân mình cũng thế, dẫu biết là hư dối, vô ngã, không thật, chỉ là duyên hợp của tứ đại nhưng vẫn cần lấy nó, dùng nó để hành, để lễ Phật, để thực hành hiếu đạo, thực hành lời Phật dạy khi mà mình còn trôi lăn trong ba ngã sáu đường.

Tháng bảy mùa trăng của mẹ, mùa Vu Lan, mùa hiếu hội vốn đã muôn đời, dù hình thành từ nền văn minh nông nghiệp xa xưa nhưng vẫn thanh tân trong xã hội hiện đại hôm nay và ắt sẽ còn mãi mãi khi mà con người còn có sự kết hợp giữa phần xác (sắc) và phần tinh thần (danh). Khi con người còn tâm hồn, còn đạo đức, nhân luân thì xã hội và phương tiện kỹ thuật có phát triển cao độ cỡ nào cũng không thể thay thế được ý nghĩa tâm linh, giá trị nhân văn, đạo đức và tình cảm của con người.

Khi Phật còn tại thế không có lễ Vu Lan, mấy trăm năm sau đó cũng chưa có lễ Vu Lan. Đức Phật và các thánh tăng, cao tăng và con người thời ấy chưa cần phương tiện dẫn dắt. Các ngài vốn là bậc đại hiếu, tận hiếu, toàn hiếu rồi. Đức hạnh, giới hạnh, phạm hạnh các ngài như trăng rằm. Sở dĩ ta gọi ngài Mục Kiền Liên là đại hiếu đệ nhất là vì căn cứ vào tích Mục Kiền Liên cứu mẹ. Nói như vậy không có nghĩa là các vị thánh tăng kia hiếu không bằng ngài Mục Kiền Liên. Không phải vậy,  ấy chỉ là đại biểu, đại diện cho một khía cạnh. Có nhiều nghiên cứu và chứng cứ cho rằng ngài Xá Lợi Phất mới là đại hiếu, tuy nhiên ngài Xá Lợi Phật đã là đại diện cho trí huệ đệ nhất rồi, nên ngài Mục Kiền Liên đại diện cho đại hiếu đệ nhất. Mỗi một vị thánh tăng làm đại diện cho một mặt, đó cũng là cách nói biểu trưng mà thôi.

Mỗi mùa trăng tháng bảy về làm lay lòng những người con Phật, những người con hiếu, mọi người hướng về mẹ cha hiện tiền, tưởng nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục. Những người con Phật không chỉ hiếu với mẹ cha mà còn hồi hướng phước đức cho đến cửu huyền thất tổ, mở rộng đến khắp pháp giới chúng sanh.

Từ khi những người con Phật gốc Việt lưu vong, di tản, di cư đến những vùng đất mới. Họ mang theo văn hóa và đức tin. Những ngôi chùa lại mọc lên ở quê hương thứ hai, những lễ hội văn hóa truyền thống được cử hành và gìn giữ. Hiếu hội Vu Lan cũng là một nét văn hóa truyền thống quý báu ấy. Vu Lan hiếu hội không còn gói gọn trong cộng đồng Phật giáo. Những người con Việt khác đức tin cũng hào hứng với lễ hội báo hiếu, bởi một lẽ không chỉ những người con Phật mới hiếu mà tất cả mọi người đều có lòng hiếu thảo, có tâm nghĩ về cha mẹ.

Hiếu hội Vu Lan hải ngoại không chỉ là một lễ hội tôn giáo, một sự kiện trong nhà Phật mà còn là một sự kiện văn hóa – nhân văn của người Việt hải ngoại.

 

Tiểu Lục Thần Phong
Vancouver, 0724


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2013(Xem: 4991)
Thời gian cứ lặng lẽ trôi. Nhiều khi chúng ta như muốn níu nó lại để cảm nhận từng cung bậc buồn vui của cuộc sống. Thi sĩ Xuân Diệu cũng đã từng ôm ấp một mơ ước thật táo tợn như thế, một cảm giác yêu cuộc sống đến 'vội vã',
11/04/2013(Xem: 5861)
Thôn Trường Lạc Xã Diên Lạc huyện Diên Khánh tỉnh Khánh Hòa ĐT. 0905.566099 Trú trì: Đại đức Thích Giác Hạnh
11/04/2013(Xem: 7196)
Dòng tâm thức nối tiếp từng sát na sanh diệt liên tục luôn trôi chảy không ngừng, do đó tri giác không thế nào nắm bắt thực tại một cách toàn diện được. Tất cả sự vật được dung chứa trong không gian đều có lực cản của chính nó và bị trọng lực thu hút và ảnh hưởng của sáu đại khác, có thể gây thêm cho sự vật ấy di động với những tốc độ khác nhau và có thể làm tổn hại đến chính nó và các sự vật khác.
11/04/2013(Xem: 6533)
Nhân là nguyên nhân, là năng lực phát động; quả là kết quả, là sự hình thành của năng lực phát động. Định luật nhân quả chi phối vạn sự vạn vật trong vũ trụ không có ngoại lệ:....Luật nhân quả hay sự tương quan giữa nguyên nhân và kết quả trong luật về "Nghiệp" của Phật giáo. Mọi hành động là nhân sẽ có kết quả hay hậu quả của nó. Giống như vậy, mọi hậu quả đều có nhân của nó. Luật nhân quả là luật căn bản trong Phật giáo chi phối mọi hoàn cảnh. Luật ấy dạy rằng người làm việc lành, dữ hoặc vô ký sẽ nhận lấy hậu quả tương đương. Người lành được phước, người dữ bị khổ.
11/04/2013(Xem: 11075)
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
11/04/2013(Xem: 4976)
Bé Phương chạy quanh quẩn trong sự chăm nom đầy tình thương yêu của Mẹ. Sống ở một miền quê, cách thành phố nhộn nhịp huyên náo không xa, nhưng với mật độ dân cư thưa thớt lúc bấy giờ, nơi đây trở nên trống vắng, cảnh thôn dã về đêm cô liêu tịch lặng. Mỗi khi hoàng hôn phủ xuống, những ngọn đèn dầu leo lét được thắp sáng, sự yên tĩnh của khí trời cùng hòa quyện tiếng kêu xa của loài côn trùng rĩ rả.
11/04/2013(Xem: 5305)
Mẹ tôi đã thật sự ra đi!!! Tôi vẫn biết rồi ai cũng phải chết, nhưng sao vẫn đớn đau vô ngần. Có ai biết được tâm trạng của những người con mất Mẹ. Tôi cố nén lòng mình, nhưng nỗi đau vẫn tuôn trào biến thành những giọt nước mắt. Những giọt nước mắt ấy dù đi ra hay chảy ngược vào trong tâm khảm,vẫn không có nghĩa lý gì vì không thể nào khỏa lấp được nỗi bơ vơ cùng tận.
11/04/2013(Xem: 4692)
Hình ảnh đàn gà con chạy quanh quẩn, ngơ ngác kêu la thất thanh một khi lạc bầy, mất mẹ; trong chúng ta ai cũng từng thấy và cảm nhận trong đời sống thường ngày. Điều này, đã chứng minh hùng hồn rằng tình thương yêu phụ mẫu tử không chỉ thể hiện sâu sắc trong phạm vi loài người.
10/04/2013(Xem: 4915)
Từ ngàn xưa cho đến hôm nay, đã có rất nhiều, và rất nhiều cảm niệm về Mẹ. Mẹ, chỉ có một ý niệm này thôi mà đã thôi thúc bao áng văn hay, trác tuyệt diễm lệ để diễn tả về Người; và, cảm nhận của chúng ta về Mẹ thì dường như bất tận. Sao lại không bất tận? Tình Mẹ đối với con đâu có ý nghĩa về không gian và thời gian, bầu sữa Mẹ có thể dứt nhưng tình thương của Mẹ không bao giờ chấm dứt.
10/04/2013(Xem: 4550)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]