Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý Nghĩa Vu Lan

11/04/201312:03(Xem: 5558)
Ý Nghĩa Vu Lan

hoa_hong (3)

Ý Nghĩa Vu Lan
 Thích Đức Niệm

Vu-Lan lại về. Vu-Lan về với người con Phật. Đặc biệt với người con Phật tha hương, những người con thảo cháu hiền còn nghĩ đến ân sâu nghĩa nặng của mẹ cha, thì nỗi nhớ niềm thương trong mùa Vu-Lan lại càng thắm thiết hơn bao giờ! Nhưng Vu-Lan mang ý nghĩa gì? Tại sao mỗi độ Vu-Lan về những người con thảo cháu hiền cảm thấy bồi hồi với những kỷ niệm cùng người khuất bóng, mà mình đã từng sống, từng quen thân, từng chịu ân? Có những cõi lòng cảm thấy trơ trọi cô đơn mỗi lần khói trầm hương Vu-Lan quyện tỏa, hòa với lời kinh nguyện cầu trong ngày rằm tháng bảy Vu-Lan thắng hội.

Vu-Lan còn gọi là Vu-Lan thắng hội. Vu-Lan phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, người Trung-Hoa dịch là giải-đảo-huyền. Giải là cởi mở. Đảo là lộn ngược. Huyền là treo. Nói trọn nghĩa chữ Vu-Lan là giải cứu những người đã lỡ lầm thất đức tạo những tội lỗi nặng nề phải bị các hình phạt đớn đau như người bị treo ngược, đói khát thống khổ suốt ngày đêm không ngừng.

Nhớ lại khi đức Phật Thích-Ca còn tại thế, một trong những người đệ tử lớn của Ngài là tôn-giả Mục-Kiền-Liên, sau khi nhận chân đâu là chánh pháp giác ngộ, đâu là tà đạo, đã bỏ tà về chánh quy y Phật, được Phật nhận làm đệ tử cho thọ giới mặc áo cà-sa, nhập hàng tăng chúng. Từ đó, Mục-Kiền-Liên đã dốc lòng chuyên tâm tinh tấn tu học không giây phút giải đãi. Chẳng bao lâu, tôn-giả chứng được thánh quả đắc pháp thần thông, trở thành một trong số mười người đệ tử lớn của đức Phật, đặc biệt sở đắc về thần thông đệ nhất.

Nhưng sự đời trái ngược, không thuận như gió thoảng nhẹ, như nước chảy xuôi dòng! Mục-Kiền-Liên tôn-giả sau khi qui đầu theo Phật, tinh tấn tu học, niềm tin thâm sâu vào đạo giải thoát. Tôn-giả nhiều lần khuyên mẹ là bà Thanh-Đề nên cùng phát tâm tu học đạo giác ngộ của đức Phật để được giải thoát sanh tử luân hồi. Nhưng bà Thanh-Đề nghiệp chướng tham sân chấp ngã, bỏn sẻn keo rít, ác tâm quá nặng. Tâm bỏn sẻn, lòng ích kỷ của bà đã thành định tánh. Lại hay cố chấp, bo bo giữ của, nên tánh nào tật nấy, không mấy nghe theo lời khuyên khẩn thiết của tôn-giả Mục-Kiền-Liên. Tánh tình chập hẹp của Bà chẳng thay đổi. Tuy Mục-Kiền-Liên tôn-giả hết lòng thương mẹ, lo âu cho tâm tánh nghiệp chướng của mẹ, đã nhiều lần thống thiết khuyên mẹ hồi tâm phản tỉnh quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả nghiệp báo luân hồi, buông xả tham chấp. Nhưng lời khuyên thành khẩn của người con hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên không lay chuyển được người mẹ, tâm dạ nặng nghiệp tham chấp. Năm tháng lặng lẽ trôi đi, người con hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên quyết chí tu hành được đắc thánh quả A-la-hán.

Ngày tháng như thoi đưa. Bốn mùa luân lưu thay đổi. Người mẹ cố chấp tham tâm ác tính theo định luật vô thường rồi phải bỏ thân tứ đại mộng huyễn, theo nghiệp ác đọa vào ngạ quỷ, bụng to như trống, cần cổ như cây kim, đứng trên lửa đỏ, ngồi trên bàn chông, đói khát khổ sở vô cùng không sao tả xiết!

Mục-Kiền-Liên tôn-giả khi chứng được đạo quả, thường bên cạnh đức Phật Thích-Ca trợ lực giáo hóa thuyết pháp độ sanh. Lắm lúc tôn-giả nhớ thương đấng sanh thành dưỡng dục vô ngần. Thế rồi một ngày nọ, tôn-giả dùng huệ nhãn quan sát khắp trong sáu nẻo luân hồi, thấy cha mình nhờ khi sanh tiền biết quy y Tam-Bảo, tu thiện nghiệp, nên khi chết được sanh lên cõi trời hưởng phước báo an vui. Còn mẹ là bà Thanh-Đề do tham sân cố chấp tạo ác nghiệp, nên phải sanh vào loại ngạ quỷ đói khát rên xiết thảm não. Tôn-giả hết sức đau lòng xót thương. Ngài liền đem bình bát cơm vận dụng phép thần thông đến chỗ bà Thanh-Đề, để dâng cơm lên cho người mẹ khốn kiếp đọa đày, ăn cho đỡ dạ. Nào ngờ bà Thanh-Đề vừa thấy bát cơm, lòng tham lam ích kỷ lại khởi lên, sợ các quỷ khác xúm lại xin ăn, nên bà liền lấy tay trái che bát cơm, tay phải bốc ăn. Nhưng đau đớn thay, cơm hóa thành lửa, không thể nhai nuốt được nữa! Mục-Kiền-Liên xót xa rơi lệ, biết mẹ mình nghiệp chướng quá nặng, không thể cứu được. Tôn-giả xót xa rơi lệ, chào từ biệt mẹ, vội vã trở về bạch mọi sự việc đau lòng vừa xảy ra, cầu mong đức Phật từ bi chỉ dạy phương pháp giải cứu mẹ.
Đức Phật bảo tôn-giả Mục-Kiền-Liên rằng: Mẹ ông khi còn sống ở đời, thường ỷ mình đep khỏe giàu có, không biết làm phước bố thí cúng dường. Không chịu phát tâm quy y Tam-Bảo, khinh thường nhân quả nghiệp báo luân hồi. Lại do lòng tham lam bỏn sẻn gồm thâu gom góp tiền của mà tạo nhiều tội lỗi. Hay khinh chê mỉa mai người có nhiệt tâm hăng hái làm việc thiện. Thiếu từ tâm hoan hỷ khuyến khích người tu học, làm việc nghĩa. Suốt ngày nói chuyện thị phi, chê bai tăng ni, khi dễ người hiền, bỏn sẻn keo kiết, gom góp tiền của không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ. Mẹ ông đã tạo nên bao nhiêu điều ác đức tổn phước như vậy, nên phải chịu lấy ác quả. Các tội ác đó kiếp kiếp ở trong ba ác đạo, cho dù lòng hiếu thảo của ông có to lớn cảm động đến cả thiên địa, nhưng phước đức một mình ông không thể cứu nổi cái tội nặng nề của mẹ ông, dù ông ngày nay đã chứng quả A-la-hán. Muốn cứu thoát mẹ ông khỏi kiếp ngạ quỷ, chỉ còn phương pháp duy nhất là nhân dịp rằm tháng Bảy chư tăng tự tứ. Ngày đó chư tăng tự tứ cũng là ngày chư Phật Bồ-Tát mười phương hoan hỷ, chư thiên đều tán thán và chư thiện thần đều gia tâm hộ trì. Bởi vì, ngày rằm tháng bảy là ngày chư tăng đã tròn đủ ba tháng an cư kiết hạ, giới luật tinh nghiêm, tâm niệm thanh tịnh, tăng thêm tuổi đạo, công đức cao dày. Ngày này cũng là ngày trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, được dừng nghỉ hành hạ, để cho chúng sanh nào biết hồi tâm hướng thiện niệm Phật, hồi tâm giác tỉnh theo tiếng chuông u minh, theo lời cầu kinh của chư tăng thì liền đó đức Địa-Tạng Bồ-Tát đến phóng quang tiếp độ, cứu thoát khỏi cảnh khổ.

Phật lại dạy tôn-giả Mục-Kiền-Liên: Vậy nhân ngày rằm tháng Bảy chư Tăng tự tứ, ngày công đức cao dày của thập phương Tăng, ông nên sắm sửa trai diên, đồ ăn vật dụng hằng ngày mỗi phần đầy đủ để trong bồn. Ông phải thành tâm đi thỉnh các vị thanh tịnh tăng khắp đó đây về để thiết lễ dâng cúng dường trai tăng. Nhân dịp nầy, ông thành tâm khẩn bạch rõ tâm nguyện hiếu thảo để chư Tăng thành tâm cầu nguyện. Mẹ ông sẽ nhờ công đức cúng dường do lòng thành hiếu thảo của ông, đồng thời nhờ công đức thanh tịnh của chư Tăng tinh tấn tu hành trong ba tháng an cư, cùng sức chú nguyện khác miệng cùng một lòng thanh tịnh của chư Tăng, tạo thành năng lực bất khả tư nghì có thể hoán cải được tâm thức ác nghiệp của mẹ ông, thì mẹ ông nhất định thoát kiếp quỷ đói. Tội của mẹ ông to nặng chẳng khác nào như tảng đá to rớt trong vũng sình lầy. Phải nhờ sức nhiều người mới khiêng đẩy lên được.

Tôn-giả Mục-Kiền-Liên nghe Phật dạy xong, nức nở thương xót cho số kiếp của người mẹ mê mờ tham lam cố chấp, nhưng Ngài cũng lại rất vui mừng được Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ thù thắng viên mãn. Ngay khi tôn-giả Mục-Kiền-Liên chí thành thực hành lễ trai tăng xong, với công đức chú nguyện của chư Tăng tạo thành thần lực vạn năng, chuyển đổi tâm địa của bà Thanh-Đề ngay khi đó được thoát kiếp ngạ quỷ.

Thấy mẹ được thoát kiếp đọa đày thống khổ, ngài Mục-Kiền-Liên vô cùng mừng rỡ vội trở về đảnh lễ đền đáp ân Phật. Đức Phật dạy tôn-giả Mục-Kiền-Liên rằng: “Ân cha mẹ cao rộng như trời như biển. Dù cho người con có vai trái mang cha, vai phải mang mẹ đi khắp quả địa cầu nầy nhiều lần như số cát sông Hằng cũng không thể đền đáp được ân sanh thành dưỡng dục rộng sâu như trời biển đó. Chỉ cần phát tâm Bồ-đề học đạo giác ngộ giải thoát và khuyên cha mẹ cũng làm được như thế tức là có thể báo đền ân đức sanh dưỡng của cha mẹ. Ngược lại, nếu người con chẳng biết đạo đức, thiếu tu học đạo giác ngộ, không tin nhân quả tội phước nghiệp báo luân hồi, tự mình tội lỗi đọa đày, điều nầy không khéo lại làm cho cha mẹ tăng lòng tham đắm ngũ dục lạc, vậy là tự tạo ác nghiệp cho mình và vô tình làm duyên tạo thêm tội lỗi cho cha mẹ. Việc làm hiếu kính của ông vừa rồi để cứu mẹ ông đã có kết quả nhiệm mầu. Đấy là phương pháp báo hiếu hiệu quả nhất, nhiệm mầu nhất cho những người con hiếu thảo. Đời sau những người con thảo cháu hiền nào muốn thực hành để báo đền ân nghĩa cha mẹ thì nên làm như ông”.

Từ ấy đến nay, suốt dòng lịch sử truyền bá đạo Phật, trải hơn hai ngàn năm trăm năm, người Phật tử khắp năm châu bốn biển, hễ mỗi độ thu về, rằm tháng bảy đến, thì biết đó là mùa báo hiếu. Hình ảnh Mục-Kiền-Liên, người con hiếu hạnh muôn thuở lại sống dậy cùng với hình ảnh đức Phật từ bi hóa độ chúng sanh. Đặc biệt hình ảnh đức Phật mừng cho chư Tăng, những người con được Ngài mệnh danh là trưởng tử Như-Lai, Đạo Phật tuyên dương chánh pháp, đã tròn đầy ba tháng an cư chuyên ròng tịnh tâm tu học, xứng đáng nhận thêm một tuổi đạo. Người xuất gia hồi hướng công đức tu hành của mình đến cha mẹ và chúng sanh hiện còn được an lành, quá vãng được giải-đảo-huyền. Kinh Phật dạy rằng: “Phụ mẫu đắc ly trần, tu hành phương thành tựu”. Nghĩa là cha mẹ có thoát khỏi được cảnh đọa đày thống khổ thì sự tu hành của người con mới chứng tròn đạo quả.
Tôn-giả Mục-Kiền-Liên mở đầu kỷ nguyên hiếu hạnh cho hậu thế vạn kỷ nhân loại noi theo. Hôm nay ngày Vu-Lan, mời các bạn phát nguyện noi gương hiếu hạnh của tôn-giả Mục-Kiền-Liên, để cha mẹ được an vui nơi cảnh tịnh:
Hôm nay gặp lễ giải đảo huyền
Con nguyền theo gót Mục-Kiền-Liên
Chư tăng tự tứ con cầu nguyện
Mười phương phụ mẫu giải đảo huyền



Quay lại trang trước
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/07/2014(Xem: 9249)
"Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới tỏa khắp rạch sông" Được làm người công đức của cha ông Nên danh phận cảm nhờ ơn xã hội Chúng ta được thân làm người, là nhờ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhiều nhân duyên hội tụ. Chúng ta được khôn lớn nên người là nhờ ở sự trưởng dưỡng, giáo dục của Cha, Mẹ, Thầy, Cô và Xã Hội. Công ơn to lớn ấy, trong kinh Phật đã dạy có Bốn Đại trọng ân: 1/ Ơn Quốc gia, thủy thổ, 2/ ơn Cha, Mẹ, 3/ Ơn Tam bảo, 4/ Ơn Đàn na tín thí (xã hội), trong đó công ơn của cha mẹ là to lớn nhất, sánh bằng non biển, không thể bút mực nào tả xiết. Chỉ có tri niệm và thực hành mới hy vọng có một chút đáp đền. Đức Phật đã dạy rằng: công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn, với sự hy sinh cao đẹp, “bên ước mẹ nằm, bên ráo phần con”, thật là “ Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ, gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha”, Thương và lo cho con nên “miễn sao có lợi thì làm, chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm…”.
29/07/2014(Xem: 25325)
Hồng đỏ cài lên đẹp tuyệt vời Phải nên trân trọng nhé người ơi! Những ai còn mẹ còn hồng đỏ Màu đỏ thắm tươi vẻ rạng ngời
24/07/2014(Xem: 4684)
Tối nay ngồi vẽ Mẹ. Một người Mẹ của đồng quê đất Việt. Da mặt Mẹ đã xạm đen vì dãi dầu. Đôi mắt Mẹ đã trĩu xuống vì suy nghĩ, vì chịu đựng, vì lo lắng cho các con. Đôi môi Mẹ đã khô khan nứt nẻ, vì tranh thủ, vì buôn bán, vì cãi cọ, vì van xin, vì cầu nguyện.
24/07/2014(Xem: 4506)
Vu Lan là lễ truyền thống lâu đời có từ thời Đức Phật còn tại thế hơn 2,500 năm trước; đồng thời cũng là lễ tiết quan trọng phổ thông của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa mà tổ tiên chúng ta đã giữ gìn qua nhiều thế hệ. Lễ tiết Vu Lan hay Vu Lan thắng hội gắn liền với lễ giải Hạ - Tự tứ của Tăng đoàn Phật Giáo. Lễ Tự tứ có nghĩa là sau những tháng ngày tịnh tu Giới - Định - Tuệ, ba nghiệp của hành giả sâu lắng thanh tịnh; hai vị Tỳ kheo đối thú nhau chân thành bày tỏ khởi đi từ đạo tình cao quý nhẹ nhàng trong sáu tiếng: thấy tội, nghe tội, nghi tội, những mong đợi vị thầy đối diện chỉ bày cho ta thành tâm sám hối trước hội chúng và Tam Bảo, nguyện cải đổi không tái phạm, nếu xét thấy mình có tội. Thật là thành khẩn, cao đẹp trong hòa hài, từ bi, nhẫn thuận, bình đẳng. Nhẹ nhàng nhưng mang chất liệu tuệ giác tự thân và san sẻ với giác tha của người đối diện kết nên vòng nhân duyên thù thắng hầu tiến đến giác hạnh viên mãn.
24/07/2014(Xem: 4523)
Mỗi mùa Vu Lan đến Biết bao dòng lệ rơi Cho tình vô bờ bến Bày tỏ không nên lời Nghẹn ngào trong nước mắt Tưởng nhớ đến mẹ cha Ân tình cao chất ngất Suốt đời đã bôn ba
19/07/2014(Xem: 5128)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phật giáo chủ trương nhân quả theo nhau như hình với bóng, nghĩa là người gây nhân lành ắt sẽ hưởng quả tốt, ngược lại kẻ tham lam, vị kỷ, độc ác... chỉ biết lợi mình, không kể đến hậu quả làm phiền lụy khổ đau cho tha nhân, rộng ra là cả sinh linh vạn loại, đương nhiên sẽ gặp những phiền toái, chịu đựng những trách móc, oán hận của những nạn nhân, hay khi xả bỏ cuộc sống sẽ lãnh sự trừng phạt trong 3 ác đạo mà thế nhân hay tín ngưỡng nào cũng nghĩ bàn để khuyến miễn người đời phải lo tu thân hành thiện, làm đẹp nhân sinh. Mùa Vu Lan báo hiếu phát xuất từ đức Mục Kiền Liên kiếm tìm, thăm viếng rồi giải thoát mẹ ngài khỏi cảnh giới ngạ quỷ, có từ thời đức Phật còn tại thế; văn hóa thế nhân có từ khi loài người hướng về nẻo thiện. Gần chúng ta là văn hóa Á Đông, lấy nhân luân làm căn bản: Hiếu, đễ, tru
18/07/2014(Xem: 5044)
Nhờ năng lực của Tăng đoàn mà mẫu thân của ngài Mục Kiền Liên được thoát khỏi cảnh bi thống nơi chốn địa ngục. Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp là năng lực vô biên hóa giải được khổ đau từ cõi vô hình cho đến thế giới con người. Trọng tâm của Giáo hội chúng ta đặt ở sự hiệp lực này, trong ấy những Phật sự hằng năm của Giáo hội, tất cả tăng ni và thiện tín cùng nhau chung lo. Bốn phật sự thường xuyên của Giáo hội mà mỗi thành viên đều chung sức chung lòng đó là: Phật đản, An Cư, Khóa Tu Học Bắc Mỹ và Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ.
15/05/2014(Xem: 7227)
Hôm nay ngày giỗ của Ba tôi, tự dưng lòng tôi thèm viết một chuyện gì đó về Ba tôi…như nhà văn Võ Hồng thường khuyên mọi người nên viết lại những kỷ niệm sinh hoạt của cha, của mẹ mình, những kỷ niệm mà mình nhớ hơn hết, đáng nhớ hơn hết…để nhân ngày k?giỗ của cha mẹ, tập trung về, cùng đọc, cùng nghe, cùng xúc động, hồi tưởng công ơn. Con cháu sẽ có dịp sống lại không khí đại gia đình, con nhớ thương cha mẹ, cháu gần gủi, quý trọng ông bà!
16/10/2013(Xem: 19734)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
16/10/2013(Xem: 15526)
Kính lạy vong linh cha, Khác biệt với muôn ngàn trường hợp khi cầm viết đặt lên giấy. Con ghi lại vài nét – chỉ vài nét thôi về đời sống của cha – một người cha có lắm điều độc đáo, không những chỉ trong hàng con cháu mà bất cứ ai cũng công nhận là hãn hữu và cần rút tỉa những điểm son để soi sáng vào nếp sống của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]