Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Báo hiếu và Bồ-đề tâm

11/04/201311:54(Xem: 3671)
Báo hiếu và Bồ-đề tâm

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2012

Báo hiếu và Bồ-đề tâm

Tỳ-kheo Thích Đức Trí

Nguồn: Tỳ-kheo Thích Đức Trí

Hiếu là ý nghĩa của đạo đức, và cũng là phẩm chất của đời sống hạnh phúc và giác ngộ. Kinh điển Phật Giáo thường dạy rằng chư Phật và Bồ Tát trong quá khứ do lòng hiếu thảo với cha mẹ phát đại bi tâm cứu độ tất cả chúng sanh mà thành đạo nghiệp. Tức là xuất phát từ tình thương cha mẹ sâu sắc, ý thức khổ đau của người thân liên hệ đến nỗi khổ đau của đồng loại và chúng sanh. Tình thương rộng lớn phát triển thành đại bi tâm, từ đại bi tâm phát khởi thành đại nguyện. Đó là nguyện thành Phật độ chúng sinh là công hạnh của Bồ Tát. Do vậy, phát bồ đề tâm là năng lực báo hiếu vĩ đại và phù hợp với mục đích của sự tu học và hành đạo.

Bồ đề Tâm là gì? Ai cũng biết bồ đề tâm là tâm giác ngộ, sự giác ngộ sâu sắc, đáp án cuối cùng của nó thấy rõ cội nguồn của khổ đau và tìm phương pháp diệt khổ. Nếu khi bản thân chưa giác trọn vẹn thì chưa đoạn tận khổ đau trọn vẹn. Nhưng vấn đề tu học là chúng ta không đợi thành Phật mới chia sẽ những gì có được cho người khác. Phải nhận thức rằng, tại đây và bây giờ là yếu tố tự lợi và lợi tha song hành, là con đường dẫn chúng ta sớm thành tựu giác ngộ. Nói rõ hơn là khi chúng ta giúp người bớt khổ thì chúng ta cũng đã tự giúp mình trước rồi. Tức là giúp bản thân mình có phát khởi tình thương trước, sau đó mới có biểu hiện hành động tốt lành đối với người khác. Tình thương và lòng tôn trọng sự sống xuất hiện trong tâm, chính là hạt giống tốt để phát triển thành tinh thần của bồ tát hạnh.

Muốn có tình thương rộng lớn thì phải có khả năng quán chiếu và nhận thức về lý tưởng giải thoát khổ đau. Bạn không thể xa rời thực tế gian khổ ở đời mà tìm sự giác ngộ. Vì rằng nếu xa rời nó bạn sẽ không có hoàn cảnh để làm nhiều việc tốt. Như con cá thiếu nước thì sẽ không sống được, nếu chạy trốn thực tại thì hạt giống bồ đề giác ngộ không thể phát triển được. Có nghĩa là phải đối diện với cuộc đời để phát khởi sự đồng tình và đại bi tâm.

Một bình thường cũng có tình thương, sự đồng tình, đồng cảm đó, nhưng còn yếu đuối và mờ nhạt, như chỉ thương nồng nhiệt bản thân và người thân yêu của mình mà quên đi những người khác. Có nhiều trường hợp xảy ra, vì lợi lộc cá nhân và gia đình mình mà làm người khác khổ đau. Đôi lúc vì lợi lộc quốc gia xã hội mình mà gây chiến tranh khổ đau trong nhân loại. Thái độ sống thiển cận như thế thì không có khả năng chuyển hóa phiền não và đem đến lợi ích thiết thực chung. Đó là ý niệm về tự ngã xuất hiện và ngự trị nhiều phương diện trong cuộc sống này. Bức tường bản ngã đó được xây dựng lên bằng vật liệu vô minh và bảo thủ và muốn xô ngã nó xuống không gì hơn là dùng trí tuệ và sự xả ly sản phẩm của tự kỉ. Chúng ta thấy cụ thể, thái tử Tất Đạt Đa có đi dạo bốn cửa thành mới quán sát cảnh sanh, già, bệnh, chết và tự nhận thức rằng ta và mọi người đều sẽ như thế! Đó là sự đồng tình, đồng cảm đến cao độ, đi đến khả năng xả bỏ tất cả và vượt thành xuất gia, mở ra một con đường giải thoát tuyệt vời cho chúng sinh.

Khi có tình thương, sự đồng tình, đồng cảm đó mới thấy chắc thật mình và mọi người không khác, từ rung động trước nỗi đau của người khác và cảm nhận nỗi đau như chính mình và phát huy tinh thần cao thượng. Các kinh điển Phật giáo, nhắc lại quá trình hành bồ tát đạo, chư Phật bồ tát đã từng hy sinh thân mạng, đầu mắt tủy não mà cứu chúng sinh là nghĩa ấy. Điều này nó không xa vời đối với người có tâm từ bi. Nhiều thánh tử đạo Phật giáo đã xả thân vì đạo hay những bậc hiền đức vì sự sống của người khác mà hy sinh thân mạng mình đều là biểu hiện sự tình thương cao thượng và nguyện lực giúp đời bớt khổ đau.

Như một nguyên lý đạo đức, tinh thần cứu khổ là sự hy sinh, sự ban bố, sự cho ra, mục đích phát huy tinh thần vô ngã mới đem lại hạnh phúc cho kẻ khác được. Dây kết nối tinh thần giải thoát khổ đau là các hành động đạo đức. Kinh Vu Lan chép rằng Mẹ ngài Mục Kiền Liên, bà Thanh Đề bị đọa trong địa ngục, Mục Kiền Liên dù là tu chứng lục thông cũng không có phương cách gì cứu mẹ. Đức Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên phát tâm rộng lớn cúng dường phẩm vật lên Đức Phật và Hiền Thánh Tăng, nhờ phước đức đó mà bà Thanh Đề được sanh về cỏi an lành. Đó là do năng lực đạo đức cộng đồng chuyển hóa khổ đau thành an lạc.

Kinh Địa Tạng cũng được xem là kinh báo hiếu trong nhà Phật “Phật môn chi hiếu kinh”, nhấn mạnh phương pháp báo hiếu mà còn thuyết minh tính chất nhân quả trong hai lĩnh vực thiện ác của chúng sanh. Nhận thức đúng đắn rằng nguyên nhân mọi khổ đau là do lòng dạ tối tăm và ích kỉ tạo tác. Do đó muốn giải hóa khổ đau thì phải phát tâm rộng lớn với những hành động cao thượng. Thánh nữ Bà La Môn phát tâm cúng dường Tam Bảo, nhất tâm niệm đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại, nhờ công đức đó mà cứu mẹ thoát khỏi cảnh địa ngục khổ đau. Thánh nữ đã phát nguyện: "Tôi nguyện từ nay cho đến tận vị lai kiếp, sẽ vì những chúng sanh mắc phải tội khổ, những kẻ đang trầm luân trong sáu đường, mà quảng thiết phương tiện, lập ra nhiều phương chước, khiến cho họ đều được giải thoát, lìa khổ được vui." (Kinh Địa Tạng, quyển thượng, phẩm thứ nhất).

Cũng tương tự như thế, Ngài Quang Mục phát tâm cúng dường chùa tháp, nhất tâm niệm Phật, nhờ công đức đó mà cứu mẹ thoát khỏi địa ngục. Từ đó Quang Mục nguyện:“Kể từ nay cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về sau, hễ nơi nào có thế giới còn có các chúng sanh chịu tội khổ nơi địa ngục cùng Tam Ác Ðạo, con nguyện sẽ cứu vớt và làm cho tất cả đều xa lìa các nẻo ác Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh... Những kẻ mắc tội báo như thế thành Phật cả rồi, thì sau đó con mới thành Chánh Giác.” (Kinh Địa Tạng, quyển thượng, phẩm thứ tư).

Thánh Nữ Bà La Môn và Quang Mục Bồ tát đều là tiền thân của Ngài Địa Tạng hành Bồ tát Đạo. Địa Tạng còn có nghĩa là mảnh đất tâm chứa đủ muôn đức lành, tâm ấy có sẳn trong mọi người trên đời này. Từ nhân địa mà phát lòng báo hiếu và tình thương rộng lớn chuyển hóa thành tâm bồ đề. Theo quan điểm đạo Phật, sống không phải là bắt đầu, chết không phải là chấm dứt tất cả. Nếu chúng ta có lòng hiếu thảo, có đời sống đạo đức thì vẫn thực hiện trọn vẹn trách nhiệm của người con đối với các bậc cha mẹ còn sống. Đối với cha mẹ qua đời thì tu tạo phước đức, làm các điều lành để hồi hướng siêu độ cho cha mẹ được sanh về cảnh an lạc. Đó là phương pháp báo hiếu rất thiết thực mà Đức Phật dạy cụ thể trong các kinh điển.

Như vậy, cha mẹ và nhiều người thân yêu trên cuộc đời này là cao quí, là đối tượng của chúng ta yêu thương, là cầu nối đưa ta đến nguồn nước giác ngộ. Phẩm chất cao quý đó chan hòa vào trong biển đại bi mênh mông. Như thế, bao người đang khổ đau xung quanh ta không còn là một sự trở ngại, hay là gánh nặng lớn trong đời sống chúng ta. Nhờ họ mà chúng ta phát tâm giác ngộ và thành tựu đại bi. Bồ-tát Giới Phạm Võng có nhấn mạnh về ý nghĩa báo hiếu như sau: “Hiếu thuận đối với Cha Mẹ, Sư trưởng, chư Tăng, đối với Tam Bảo. Sự hiếu thuận phù hợp chánh pháp chí thượng, sự hiếu thuận ấy gọi là giới, cũng gọi là năng lực chế ngự, đình chỉ mọi sự tội lỗi. Cho nên đạo Phật còn gọi là Đạo hiếu.”

Đức Phật nhấn mạnh rằng người nào phát tâm niệm Phật nhất định phải tu tam phước, hiếu thuận với cha mẹ là một trong các điều trong phước lành thứ nhất giúp cho người thành tựu nguyện lực giải thoát khổ đau. Đức Phật từng dạy: “Nầy Vi Ðề Hi! Người muốn sanh nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước: •Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bậc Sư Trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành. •Hai là thọ trì Tam Quy Y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. •Ba là phát tâm Bồ Ðề, sâu tin nhơn quả, đọc tụng Kinh điển Ðại Thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành.” (Kinh Quán Vô Lượng Thọ)

Hiếu như là điều kiện cần thiết của sự thành tựu công đức tu học của mọi người. Như quy luật bình đẳng của chân lý, chứ không phải là quan niệm hay một quy ước.

Như một tấm gương thiết thực trong đời sống đạo đức, các bậc giác ngộ thể hiện hiếu hạnh như là một trách nhiệm thiêng liêng. Đức Thích Ca khi thành Phật cũng tìm cách thuyết pháp độ cha mẹ, cử hành tang lễ khi vua cha qua đời. Ngài Xá Lợi Phất cũng trở về quê hương thuyết pháp độ người mẹ hiền trước khi nhập Niết Bàn. Trong thực tế xưa nay, các bậc hiền trí trong đời cũng rất xem trọng hiếu hạnh và phát huy rộng rãi qua nhiều thế hệ. Kinh điển Phật Giáo đều tán thán và dạy phương thức báo hiếu đối với cha mẹ. Hiếu và bồ đề tâm là giá trị của đạo đức giải thoát. Hiếu hạnh là nếp sống nhân bản và phù hợp với thánh đạo.Từ đó mà có ý nghĩa hiếu thảo với cha mẹ là phải hiếu thuận với Tam Bảo và pháp giới chúng sinh.

Do vậy, hiếu và bồ đề tâm như một quá trình phát triển tiềm năng của tâm thức, từ tình thương cho đến sự cảm nhận chân thật nỗi khổ của tha nhân mà hình thành phẩm hạnh đại bi tâm. Hình ảnh các bậc giác ngộ và các bậc hiền nhân báo hiếu cha mẹ trong tinh thần vô ngã vị tha là bài học vô cùng quan trọng cho chúng ta suy tư và hành đạo. Đạo đức nhân sinh không xa rời tính chất của đạo giác ngộ, nó liên hệ từ ân nghĩa phụ mẫu cho đến ân nghĩa đối với tất cả chúng sanh. Hiếu hạnh là nhân tố căn bản của sự phát Bồ đề tâm, phát khởi nguyện lực Bồ tát đạo, là tinh thần cứu khổ ban vui và thành tựu giác ngộ. Phát huy giá trị cao thượng của hiếu hạnh rộng rãi, và mọi người đều báo ân cha mẹ đúng theo chánh pháp thì chắc chắn có được đời sống an lạc trong hiện tại và tương lai./.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/10/2010(Xem: 4185)
Hôm đó chúng tôi hẹn nhau ở một bến taxi để cùng đi dự một dạ hội lớn ở nhà hát Bastille Ba Lê. Đây là một buổi trình diễn của nhóm bà Pina Bausch, rất nổi tiếng. Bọn tôi người nào cũng áo quần bảnh bao. Các ông thì côm-pờ-lê đen, cờ-ra-vát, có người còn đeo nơ. Các bà các cô thì áo dài lộng lẫy, trang sức sang trọng, nước hoa thơm lừng. Chúng tôi ha hả cười nói ồn ào vì lâu rồi mới có dịp gặp nhau đông như vậy.
24/09/2010(Xem: 8573)
Tronghệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động. Cũngnhư có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâudày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đãchỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau...
22/09/2010(Xem: 9209)
Trongtấtcả mọi giá trị có mặt ở đời, thì giá trị giải thoát khổ đau làtối thượng nhất, mọi giá trị khác nếu có mặt thì cũng xoay xung quanhtrục giá trị thật này. Vu lan là ngày lễ khiến mỗi người, dù xuất giahay tại gia đều hướng tâm nguyện cầu, thực thi hạnh nguyện giải thoát.Từ điểm nhìn này, thông điệp giải thoát của lễ Vu lan đem lại có nhữngý nghĩa, giá trị cao quý mà ngày nay mọi người thường hay tâm niệm đến... Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
09/09/2010(Xem: 5051)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
10/08/2010(Xem: 4406)
Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy Âm lịch, toàn thể Phật tử Việt Nam chúng ta và Phật tử khắp năm châu đều tổ chức long trọng lễ Vu Lan, cúng dường Phật và chúng Tăng, dựa vào uy lực và Giới đức của đức Phật và chúng Tăng, cầu nguyện cho cha mẹ đang còn sống được an lạc và cha mẹ đã quá cố được siêu thăng cõi Tịnh Độ.
06/08/2010(Xem: 6198)
Nghi thức Bông Hồng Cài Áo trong dịp lễ Vu Lan (rằm tháng 7 Âm lịch) là một nghi thức đặc biệt của Phật Giáo Việt Nam. Càng đặc biệt hơn, nghi thức này do giới Phật tử trẻ tuổi tại miền Nam đưa vào Phật Giáo từ hơn 40 năm về trước. Sau đó không lâu. nó đã trở thành một nghi thức có tính cách truyền thống trong lễ Vu Lan. Gần đây, tuy có một số người như TT Vân Đàm (Tu viện Pháp Vương, Fairfax, Virginia) hay Cư sĩ Bình Anson (Chủ tịch Hội Phật Giáo Tây Úc) đặt vấn đề về việc lễ Bông Hồng Cài Áo có phù hợp với nghi thức Vu Lan của Phật Giáo hay không, cho tới nay nó này vẫn là một trong những nghi thức không thể thiếu của lễ Vu Lan tại hải ngoại.
06/08/2010(Xem: 7205)
Ta từng nghe lời tạc như vầy: Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân. Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả, Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền, Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
04/08/2010(Xem: 7305)
Đối với đa số, cái chết thường được quan niệm như một vách ngăn giữa hai thế giới: người mất–kẻ còn, hay cõi âm và dương thế. Trong cái nhìn của đạo Phật, cái chết được xem là một phần tự nhiên của cuộc sống. Trước sự ra đi của người thân, nhiều người thường rất đau buồn, đôi khi quên đi những sự chăm sóc và giúp đở cho người đã khuất một cách thiết thực và ý nghĩa. Nhân mùa Vu Lan–Báo hiếu PL.2546-2002, NSGN giới thiệu cùng bạn đọc về lời của một người ở thế giới bên kia, nguyên giáo sư Đại Học Y Khoa Geneve (Thụy Sĩ) với các con của ông, và vài gợi ý về phương pháp chăm sóc, giúp đở người thân trong tình trạng đặc biệt: ốm đau nặng hoặc lâm chung...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567