Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mẹ Của Tôi

11/04/201311:36(Xem: 4046)
Mẹ Của Tôi

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2012

Mẹ Của Tôi

Diamond Bích Ngọc

Nguồn: Diamond Bích Ngọc

Tôi được nghe Mẹ kể rằng vào năm 1954, sau hiệp-định Genève chia đôi nước Việt-Nam thành hai miền Nam-Bắc ngay tại vĩ-tuyến 17. (Nơi có cây cầu Hiền-Lương bắc ngang giòng sông Bến-Hải, ngăn hai tỉnh Quảng-Trị và Quảng-Bình), Mẹ đã khăn gói theo Bố tôi đi bằng "Tàu Há Mồm" di-cư vào Nam rời Bắc Việt, vì vậy mà tôi được sinh ra và lớn lên trong miền Nam Việt-Nam, được sống sung sướng như một đứa trẻ "Đẻ Bọc Điều".
Sau này lớn lên, có ý thức tôi mới biết được cái "Bọc Điều" đó nằm trong bụng của Mẹ với bao nhiêu là gian-truân, đoạn trường… Vì cả chục năm sau ngày di-cư vào Nam, Bố Mẹ đều trắng tay làm lại từ đầu nơi đất khách quê người (dù cùng trên một mảnh đất quốc Tổ, nhưng khác phong-thổ, khác giọng nói, lại bị kỳ-thị bởi những người cùng màu da, cùng giòng máu, giữa "Bắc-Kỳ" và "Nam Kỳ", giữa "Công-Giáo" và "Phật-Giáo"… Mẹ phải "buôn thúng, bán bưng", Bố phải đi làm công cho người ta. Cho đến khi có người quen, biết Bố tôi có trình độ học vấn và thông thạo tiếng Pháp, giới thiệu ông vào làm ở "Bộ Nội Vụ". Từ đó Mẹ của Tôi thôi vất vả, nhọc nhằn, đó cũng là lý-do Bố Mẹ buộc chúng tôi phải chăm lo học hành, vì trong bất cứ hoàn cảnh nào, những mảnh bằng vô-tri đôi khi lại là cứu cánh cho cuộc sống.
Năm tôi lên tám tuổi, có lần đang chơi trước sân nhà, chị người làm quên khóa cổng, tôi thấy một ông cụ già ốm yếu, tóc bạc phơ, đầu đội cái nón lá rách bươm, tay run rẩy cầm một ống "loong Guy-Gô" đứng xin ăn. Tôi bàng hoàng co rúm cả người, đó là lần đầu tiên trong đời tôi được thấy "ăn mày" bằng xương, bằng thịt. Tôi còn nhớ mình thu hết can đảm nói lớn:
"- Ông, ông… là ai? Ông cần gì?
Giọng ông yếu ớt:
"- Cô Chủ cho ông xin chút cơm thừa, ông đói lắm…!!!"
Không hiểu sao tôi hết sợ, thấy thương ông quá và có cảm tình với ông ngay, tôi đi đến gần ông, rồi bảo:
"Ông đợi con một tí nhe!"
Tôi chạy nhanh vào nhà bếp, lấy một cái bao ni-lông bới đầy cơm, hôm đó chị Ba nấu thịt kho tàu với trứng, tôi trút cả vào bao. Xong, chạy lên lầu, tôi vào phòng tìm con heo đất. nơi mà tôi dành dụm tất cả tiền Mẹ cho mỗi khi được "Bảng Danh Dự" đầu tháng nhờ điểm cao nhất lớp, đập ống, được bao nhiêu tôi nhét vội vào túi rồi chạy xuống sân nhà. Ông cụ già vẫn run rẩy đứng đó. Tôi trân trọng đưa cho ông bao cơm và một đống tiền. Ông cụ bật khóc khi thấy tôi ngây-thơ nói:
"- Con biếu ông nè!" Rồi ngạc nhiên tôi hỏi: "- Ủa sao ông khóc?"…
Bỗng có tiếng la hét cãi cọ trong nhà, chị người làm tất tả chạy ra đóng cổng, ông lão biến đâu mất, một bà chị của tôi với khuôn mặt đằng đằng sát khí. Chỉ thẳng vào mặt tôi, chị mắng:
"- Con Bé! Tại sao cho tiền ăn mày? Còn dám lấy cơm và thức ăn cho nó nữa. Hừm!... Chị Ba đâu, tại sao hồi nãy không khóa cổng ??? Cái kiểu này mai mốt tụi nó sẽ kéo đến cả làng, cả tổng xin ăn cho xem. Có ngày nó bắt cóc con Bé không biết chừng… Trời ơi là Trời!!! …" Chị dậm chân than thở…
Tôi ấm ức òa ra khóc, lúc bấy giờ tôi chỉ sợ chị người làm bị mất việc vì chị tôi sẽ "méc" với Bố Mẹ tôi chuyện này. Chị Ba cũng đứng khóc rưng rức…
Mẹ tôi bỗng xuất hiện, tôi chạy đến ôm chầm lấy Mẹ trong lúc chị tôi đang gân cổ kể lể sự tình. Mẹ bỗng ôn tồn bảo:
"- Con không có lòng chia xẻ cho người nghèo, sao lại mắng em tàn nhẫn đến thế. Em nó làm đúng. Mẹ không bênh con Bé, con lo sợ em bị bắt cóc là điều tốt vì thương em. Nhưng la hét với người ăn, người làm trong nhà như thế không phải tí nào."
Câu chuyện chỉ có thế, nhưng nó ám ảnh tôi cho đến ngày nay. Vì đó là bài học đầu đời Mẹ dạy chúng tôi về lòng Từ-Bi, Bác Ái. Mẹ đã ghi đậm trong trí não tôi như một tờ giấy trắng lúc bấy giờ, đó là: "Cái hành động tôi giúp ăn mày không phải là điều sai quấy". Có lẽ nhờ vậy mà sau này tôi đã khấn hứa là được theo gót chân Mẹ Terésa (Calcutta) hầu chia xẻ đến những người khó nghèo, tất bạt.

* (Hình 1 bà cụ nghèo khổ vùng miền tây Việt-Nam)
Có một mùa Lễ Phật-Đản, Mẹ cho chị em chúng tôi và cả chị người làm lên Chùa cúng Phật, cũng nhằm để bố thí cho ăn mày rất đông lúc nào cũng trực sẵn trước cổng Chùa. Tôi còn nhớ Mẹ giảng dậy cho chúng tôi nghe về những lối kiến trúc và bài vị trong Chùa, đó là:


*

" Gian giữa của Chùa, tầng trên nhất thờ ba vị "Thế-Tôn", đầu tóc xoăn như ốc bám, người xưa thường gọi là "Bụt Ốc". Kế đó là bà "Mụ Thiện" có mười hai tay, rồi đến bà "Di-Lặc". Sau nữa là tượng "Quan-Âm", có Kim-Đồng, Ngọc-Nữ kèm hầu đôi bên. Một bên cưỡi con Bạch-Tượng, một bên cưỡi con Thanh-Sư.


*

Rồi đến tượng "Ngọc- Hoàng", một bên là Nam-Tào, một bên là Bắc-Đẩu. Ngoài cùng có tượng "Cửu-Long" bằng đồng, có "Phật Thích-Ca" đứng giữa.


*

Hai bên phía trong Chùa, một bên thờ ông "Tu Xương" gầy khô như Hạc, một bên thờ bà "Thị-Kính" tay bế một đứa con, cạnh mình có con Vẹt đứng. Theo tục truyền đó chính là "Thiện-Sĩ", tên của chồng bà "Thị-Kính", đã hóa thân thành con Vẹt.
Ở phía ngoài Chùa mỗi bên có năm ông "Bụt", gọi là "Thập Điện La Hán". Hai gian cạnh gần gian giữa; một bên thờ tượng "Long-Thần", mặt đỏ, mắt sắc; gọi là "Đức Ông" (cũng có nghĩa là Thổ Thần). Một bên thờ thầy "Đường-Tăng", có Đạo Thánh "Bát Giới" đứng hầu. Hai gian ngoài của nhà Chùa có thờ hai tượng Hộ-Pháp; một tượng mặt mũi hiền lành, tay cầm quả ấn; một tượng mặt mũi dữ hơn, tay vác thanh gươm.
Còn đôi bên vách tường có họa hình; nào là "Thiên-Phủ" (Thiên-Đàng), có các nàng Tiên gẩy đàn thổi sáo vui vầy. Nào là "Địa-Phủ" (Địa-Ngục), có "Diêm-Vương" hành tội những người chết, kẻ bị "Quỷ-Sứ" cưa đầu, kìm lưỡi, kẻ bị quẳng vào núi gươm đao. Tùy theo cách sống của con người trên trần gian, khi nhắm mắt xuôi tay có người được lên Thiên-Đàng, hưởng sự sung sướng ngàn thu, có kẻ bị trầm luân nơi Địa-Ngục khổ ải, phải trải nếm đắng cay.
Ngoài cửa Chùa còn có cửa "Tam Quan" làm gác chuông. Sau Chùa có "Tĩnh" để thờ "Chư-Vị" và có nhà thờ "Tổ". Nhà thờ "Tổ" là nơi mà những Tăng-Ni tu hành, tận hiến lúc sinh thời, khi chết đi nhà Chùa tô tượng để thờ. Lại có nhà "Hậu" để thờ những người mua hậu Chùa, cứ đến ngày giỗ, thì nhà Chùa phải cúng giỗ.
Sau Chùa có phòng riêng biệt lập, làm chỗ cho "Nhà Sư" ở, gọi là nơi "Trụ Trì", người thường nam cũng như nữ hoặc trẻ con không ai được phép lai vãng đến gần chốn này.
Nhà "Phương-Trượng" dùng để tiếp các "Thí-Chủ" (Khách-Khứa) được xây cách riêng chỗ "Trụ Trì" của Nhà Sư. Phía sau đó là nơi mộ-tháp của "Tăng-Ni". Chùa phải có Nhà Sư ở; Sư nam gọi là "Tăng", Sư nữ gọi là "Ni". Chùa nào không có Tăng, Ni thì có một thầy tu gọi là thầy "Già Lam" để coi việc đèn hương, cúng bái."
Cũng mùa Lễ Phật-Đản năm đó. Tôi thấy chị tôi lần đầu tiên biết bố-thí cho ăn mày, tôi nhớ rất rõ đôi mắt Mẹ sáng ngời long lanh ướt lệ, không biết vì khói hương nghi ngút trong Chùa hay Mẹ khóc vì sung sướng, cảm động khi thấy con mình biết lắng nghe và thực hành lời Mẹ dậy về lòng Nhân-Hậu, Từ-Bi trong cuộc sống.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 3828)
Văn bút "Bông hồng cài áo" của thượng tọa Thích Nhất Hạnh, trở thành một kiệt tác và được truyền thừa rộng rãi ở Việt Nam. Cho tới ngày nay, đã hơn 20 năm, chưa có một bản văn nào nói về mẹ được mọi giới ưa chuộng, hoặc thay thế được. Lời lẽ trong bài "Bông hồng cài áo", không phải súc tích ở lời văn chải chuốt, triết lý cầu kỳ. Sở dĩ, được mến mộ, vì bản văn vừa khế lý lẫn khế cơ. Đạo hiếu là đạo của con người và ai cũng muốn trả ơn cha mẹ.
10/04/2013(Xem: 3451)
Hằng năm cứ đến ngày rằm tháng bảy, khi trời đất chuyển sang thu, thì trong mỗi trái tim của người con Phật xuất gia thường in đậm bằng 2 dấu ấn. Đó là ngày lễ Tự tứ, kết thúc 3 tháng An cư kiết hạ và dịp lễ báo hiếu đối với ân đức sinh thành. Nói đến sự báo hiếu, chúng ta không thể không nhớ đến hình ảnh hiếu thảo chấn động thiên địa của tôn giả Đại hiếu Mục-kiền-liên.
10/04/2013(Xem: 4112)
Rất phổ biến là các huyền thoại khai nguyên tộc người, những sáng thế luận của các tôn giáo đều giống nhau ở chỗ sáng tạo ra một cặp nam nữ đầu tiên ở buổi hồng hoang xa xăm của lịch sử. Một người đàn ông, một người đàn bà và con cái của họ là hình ảnh của tế bào gia đình nguyên sơ mà ngày nay, trong xã hội hiện đại, đang trở thành mô hình thời thượng. Thật ra, trong lịch sử chúng ta đều biết cấu trúc gia đình có những quy mô lớn hơn: bầy đàn, thị tộc, bộ lạc, tông tộc, cộng đồng làng xóm…
10/04/2013(Xem: 3317)
Thầy kính thương của con ! Thấm thoát mà ngày tháng qua mau , con đi xa đã gần ba tháng và một mùa hạ nữa cũng sắp đi qua . Trời vào thu thật buồn , nắng hiu hắt, gió heo may báo hiệu lễ Vu Lan đã về . Tâm trạng của đứa con xa nhà nào có khác gì một kẻ mồ côi, chiều xuống sao nghe lòng buồn chi lạ!
10/04/2013(Xem: 3778)
Boong boong… Hỡi hồn hoang Trong chiều vàng màu lửa Tàn tạ tiêu điều Trong một kiếp cô liêu !
10/04/2013(Xem: 4162)
Phải, ngọn núi này đã đi vào lòng người như một tuyệt tác không lời nhưng vẫn còn mãi âm vang. Âm vang ấy lưu vọng từ đời này sang đời khác, kiếp này sang kiếp nọ. Con người không thể nghe được bằng tai thường, mà chỉ nghe bằng một thứ tiềm thức sâu thẳm, đầy gợi nhớ, gợi thương, thầm kín mà chẳng bao giờ quên được.
10/04/2013(Xem: 3980)
Bên cạnh chùa có một dòng sông, ngày xưa tôi còn nhỏ con sông rất nhỏ, có thể gọi là con suối. Bắt qua suối là chiếc cầu bằng tre, chông chênh lắt lẻo. Thỉnh thoảng tôi đi qua phía bên kia suối trên chiếc cầu tre gập ghềnh, đung đưa như chiếc võng để qua bên kia buôn làng đồng bào Thượng mua bí ngô,bắp ,măng le, về ăn.
10/04/2013(Xem: 3911)
Một con người xuất khẩu thành thơ, đi mua chịu rượu và đồ nhậu, ghi vào sổ nợ cũng ghi bằng thơ, viết văn và làm thơ với một tốc độ kinh hồn, ông để lại cho nền văn học Việt Nam một số lượng tác phẩm đồ sộ, giá trị. Vậy mà số phận thật hẩm hiu, ông có vợ, có người yêu nhưng không tìm thấy hạnh phúc, ông chia tay với vợ, với người yêu và giong ruỗi đi tìm, đi tìm giai nhân khắp bốn phương trời, tìm trong mộng, trong thi ca và trong cả những ngôi chùa mà ông có duyên đến và được đón nhận, không mặn nồng nhưng vẫn không lạt lẽo.
10/04/2013(Xem: 3520)
Con không thể nào tin rằng mẹ đang muốn con đi làm với mẹ -- Đang là mùa hè, con không phải đi học, và thậm chí chỉ mới 7 giờ sáng! Mẹ, mẹ nghĩ sao vậy? Con biết là tính con cũng hay phá lệ và có những vấn đề trục trặc, nhưng con chỉ mới 14 tuổi thôi!.......
10/04/2013(Xem: 4363)
Giải trừ cái khổ bị treo ngược vừa là ý nghĩa thâm diệu của Vu Lan nhưng cũng vừa là sứ mệnh thiêng liêng trọng đại của hàng đệ tử đức Như Lai. Mùa Vu Lan là mùa báo hiếu. Báo hiếu chỉ có ý nghĩa đích thực khi đại nguyện cứu khổ độ sanh được thể hiện trọn vẹn, bởi thế, ở đâu có khổ đau, ở đó cần đến năng lực từ bi cứu độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567