Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thường Đoạn trong giáo lý Đạo Phật

11/04/201311:16(Xem: 7350)
Thường Đoạn trong giáo lý Đạo Phật


labode_7
Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2011

Thường Đoạn trong giáo lý Đạo Phật

Phổ Nguyệt

Nguồn: Phổ Nguyệt

Dòng tâm thức nối tiếp từng sát na sanh diệt liên tục luôn trôi chảy không ngừng, do đó tri giác không thế nào nắm bắt thực tại một cách toàn diện được. Tất cả sự vật được dung chứa trong không gian đều có lực cản của chính nó và bị trọng lực thu hút và ảnh hưởng của sáu đại khác, có thể gây thêm cho sự vật ấy di động với những tốc độ khác nhau và có thể làm tổn hại đến chính nó và các sự vật khác. Trung Không Diệu Hữu cũng có nghĩa là trong không gian chứa biết bao điều huyền diệu. Trong không gian dung chứa tất cả mầm sanh diệt hay không gian đồng hóa với mầm sanh diệt tức là không gian coi như là mầm sanh diệt, vô thường. Đoạn kiến và thường kiến (Annihilation and Permanence), hay.tử và bất tử (Death and immortality) là một thực tại hai mặt không bao giờ rời nhau. Thực tại không bao giờ đi từ sự bất đông.
I. Thường Đoạn Trong Một Thực Tại Hai Mặt
Theo Trung Quán Luận, thế giới hiện tượng nầy được coi là không thật mà cũng không giả, nhưng nó là bất khả xác định và bất khả minh chứng trên phương diện luận lý. Theo ngôn ngữ của ngài Long Thọ, tính cách bất xác định nầy của thế giới hiện tượng được gọi là đặc tánh duyên khởi của chư pháp hoặc là không tánh của chư pháp.
Ở đây, chúng ta thực sự đối diện với một nghịch lý hiễn nhiên và rất lý thú. Mỗi hiện tượng đều là bất xác định về luận lý; chúng ta không thể nói nó hiện hữu và không thể nói nó không hiện hữu, hoặc vừa hiện hữu vừa không hiện hữu. Khi các trường hợp nầy đều bị phủ định thì hiện tượng trở thành bất xác định, tức là trống không, nghĩa là không có bất cứ giá trị tuyệt đối nào. Vật tối hậu đó cũng là bất xác định và cũng không thể mô tả. Thật ra, cái tối hậu chính là không- tánh của mọi vật, mọi hiện tượng. Đi theo lối phân tích nầy, chúng ta sẽ hiểu rõ nghĩa hơn về ý nghĩa thâm sâu trong câu kệ sau đây của Ngài Long Thọ :
Thế gian không có gì khác Niết Bàn,
Và Niết Bàn không có gì khác với thế gian.
Giữa thái cực của Niết Bàn và thái cực của thế gian, không có một chút khác nhau nào cả.Tuyệt đối hay Niết bàn (thường kiến), và hiện tượng (đoạn kiến, hay vô thường) không khác nhau. Khi đứng trên điều kiện duyên khởi và lập trường đa nguyên tánh để xét thế gian nầy, bảo rằng nó có tính cách hiện tượng hay thế tục. Nhưng khi chúng ta không qui chiếu vào duyên khởi và đa nguyên tánh để xét thế gian thì nó được coi là Niết Bàn, là cái tối hậu. Cho nên, chúng ta thấy, thật ra việc chỉ trích phái Trung Quán về chuyện họ phân chia chân lý thành hai giai tầng là điều không công bằng. Hiện tượng chính là hình thức che dấu của tối hậu, nhưng nó không khác gì tối hậu. Vì vậy cần phải nhấn mạnh rằng thuyết không- tánh không bao hàm sự phủ nhận thế giới hiện tượng, mà chỉ bao hàm thái độ vô chấp đối với những hiện tượng, và không chấp nhận bất cứ lý thuyết nào nói rằng thế giới hiện tượng là thực một cách tối hậu (Thực Tại và Chí Đạo, trang 66, 67).
*Tàng Thức và Tự Tính Tùy Thuộc (Paratantra): Theo Asanga tri nhận thực tại được đặt trên kiến thức về tự tính tùy thuộc hay duyên khởi. Tự tính giả lập (parikalpita) chỉ thể cách tri giác trong ấy tự tính tùy thuộc được thực hóa, trong khi tự tính tuyệt đối (parinispanna) chỉ ý thức giác ngộ nhìn tự tính tùy thuộc một cách trung thực như là hiển lộ phi thực tính của chủ thể và đối tượng. Do đó, trong Duy Thức tùy thuộc được giải thích là không phải là hiện hữu mà cũng không phải là không hiện hữu. Theo Asanga, tự tính tùy thuộc là thực tại thuần túy để chúng ta tri nhận, trong khi tự tính giả lập và tự tính tuyệt đối tượng trưng cho hai thể cách tri nhận thực tại nầy. Tóm lại, tự tính tùy thuộc chỉ duyên khởi trong phương diện thực tại/tri thức của nó, trong khi tàng thức tượng trưng cho nền tảng hiện thực và cơ cấu tác động của duyên khởi. Sự liên hệ giữa tự tính tùy thuộc và tàng thức thì hết sức là then chốt trong vai trò mà tàng thức đóng trong giải thoát luận của Asanga.(Thực Tại và Chí Đạo, trang 97, 98)
II. Trong Đoạn Có Thường
Trong Chuyện Cổ Phật Giáo, « Chuyện Nàng Bhadda », trích lời đối thoại giữa Xá Lợi Phất và nàng Bhadda về Thường Đoạn như sau :
…Cho bần đạo hỏi một câu, với một câu thôi nàng sẽ tự giải quyết cho chính mình. Câu hỏi như thế nầy: Cáng của ngọn đèn trước mắt nó thường hay nó đoạn.
-- Chẳng phải thường -- Nàng nghĩ -- Thường sao được khi nó sinh diệt từng giây từng phút. Chẳng phải đoạn, đoạn sao được khi nó đang hiện hữu!
Thấy nàng Bhađda im lặng, tôn giả Xá Lợi Phất tung câu hỏi thứ hai :
-- Này nàng Bhađda! đây là câu hỏi thứ hai nhằm gợi ý cho nàng để nàng bước ra khỏi cái lẩn quẩn, loanh quanh của các luận lý Thường, đoạn, có, không. Đây là câu hỏi: Thuở nàng 5 tuổi, nàng thấy một bông hoa. Thuở 30 tuổi nàng thấy một bông hoa. Nàng có thay đổi cái hoa dẫu có khác, quan niệm đẹp xấu dẫu có khác, nhưng cái thấy của nàng có thay đổi không?
-- Không thể thay đổi, thưa tôn giả.
- Nó chẳng phải là thường không?
-- Bất khả thuyết -- Nàng Bhađda buộc miệng trả lời như vậy rối tự nghĩ: Ta đã tự trói mình, vậy thì hãy vùng vẫy khi còn vùng vẫy được. Gã Sa Môn nầy đã bủa vây ta bằng một chiếc lưới quá kiên cố và quá chặt chẻ. ..(Thực Tại và Chí Đạo, trang 122, 123)
III. Thường Đoạn Là Dòng Lưu Chuyển Sanh Diệt
TÁNH KHÔNG & DUYÊN KHỞI HAY THỰC TẠI GIẢ LẬP
1).Duyên Khởi Từ Vật Chất
Hiện tượng vô thường của sự vật hiện hữu do nhân duyên kết hợp, do đó chúng không có lúc nào tự mình độc lập tồn tại. Rõ ràng chúng có sanh ra thì có lúc phải hủy diệt vì lẽ có sự trao đổi vật chất và năng lượng với môi trường chung quanh. Trong vật lý học, việc bảo tồn năng lượng cho biết năng lượng không sanh ra và không biến đi mà chỉ có thể thay đổi. Khi sự giao lưu năng lượng và vật chất của mỗi hữu thể với bên ngoài, hữu thể đó tạm thời ổn định cân bằng vì phải tiêu tán năng lượng và vật chất, nên thay cũ đổi mới để tồn tại. Sự trao đổi vật chất và năng lượng của hữu thể trong không gian là lịch trình sanh trụ hoại diệt. Sự giao lưu vật chất và năng lượng của xác thân con người với bên ngoài được tạm thời hiện hữu là lịch trình sanh lão bịnh tử. Sự vật hiện hữu do duyên họp, khi duyên tan thì hoại không, theo lý Duyên Khởi của Ngài Long thọ. Còn sự vật tạm thời hiện hữu gọi là Thực Tại Giả Lập theo Duy Thức Học của Ngài Vô Trước.
2).Duyên Khởi Từ Vật Chất Đến Phi Vật Chất
Sự giao lưu năng lượng và vật chất với bên ngoài nên bản thân sự vật không những lệ thuộc vào nhân duyên nội tại mà phải bị ảnh hưởng nhiều bởi môi trường ngoại giới. Như ảnh hưởng vật chất (thức ăn) đến sinh lý con người, mà sinh lý ảnh hưởng đến tư tưởng tình cảm và hành động. Hệ thống cân bằng sinh lý của con người được tạm thời ổn định là lịch trình tiêu tán của trạng thái đau khổ và khoái lạc. Lý Duyên Khởi được nhận thức sâu sắc qua Tứ Đế:Tập (nhân) Khổ (quả), Đạo (nhân) Diệt (quả), và Thập Nhị Nhân duyên. Ngay Lục Căn trong Sắc Thân của Ngũ uẩn cũng cần được phân tích theo Tâm lý học để làm sáng tỏ lý Duyên Khởi, là Thực Tại giả lập, là Tánh Không hay là sự vật đều không có Tự Tánh.
IV. Cái Thường Thật Có Trong Cái Đoạn
Riêng Đại Thừa Khởi Tín thì chỉ rỏ 2 mặt của chân như: bản chất không (chơn không) của mọi hiện tượng mà vẫn có sự tồn tại của các pháp (diệu hữu), nghĩa là Đại thừa chỉ dương thống hợp cả hai quan niệm đó mà chủ trương Chân không tức Diệu hữu. Đó là chỗ lập cước căn bản của Đại thừa. Dĩ nhiên, về triết học Đại thừa, cũng có người chỉ thiên về phương diện Chân Không mà lập thành thế giới quan nhưng cũng có người phản đối chủ trương ấy mà nghiêng về phương diện Diệu Hữu để khảo sát các hiện tượng.Tuy có những chủ trương tương phản đó, nhưng bất luận chủ trương nào cũng đều thừa nhận rằng: Chân Không không ngoài Diệu Hữu và ngược lại. Nghĩa là khi đã đạt đến tuyệt đối thì Chân Không là Diệu Hữu, Diệu Hữu tức Chân Không. Đó là điểm cộng thông của tất cả các Bộ phái Đại thừa.
V. Thực Tại Điểm (Thường) Thật Có Trong Cái Đang Là (VôThường)
Trong Kinh Nhất Dạ Hiền Giả, đức Phật dạy rất rõ, vì cái thường kiến lưu chuyển theo thời gian (tam thời bất khả đắc), nên muốn nắm bắt cái đoạn kiến (thực tại), thì tuệ quán ngay cái không động không rung chuyển, như đoạn kinh trích sau đây:
“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập,..”
Thời gian huyễn hóa. Quá khứ đã qua và đã đoạn tận, tri giác không thể nhận diện., nên không truy tìm. Tương lai chưa đến, đối tượng không có mặt làm sao cảm nhận được, nên không ước vọng trong tương lai. Hiện tại là thời gian đang trôi chảy nối tiếp những điểm li ti sát na sanh diệt, là cái Đang Là, không nắm bắt được. Tam thời bất khả đắc, nên Phật dạy, quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, và không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại. Nhưng chỉ có pháp hiện tại, thì Tuệ Quán mới có thể nắm bắt đựợc. Tuệ quán được hiển lộ thực sự trong chuyển động của pháp hiện tại (trong động tác đang là). Trong động tác đang là cuả pháp hiện tại nối tiếp những điểm sát na sanh diệt. Nhận thức ngay thực tại điểm của tri giác nguyên sơ và liền xa lìa nhận thức đó. Tri giác nguyên sơ là chơn thức vừa cảm nhận (vừa sanh) là vừa nhận biết thì chơn thức ấy (giác thức nguyên sơ) biến thành Giác Trí, nên gọi là Chơn thức sanh mà vô sanh vì điểm sát na sanh mà không bị diệt, do mủi tên Tuệ quán nhắm trúng và đã chuyển thức thành trí rồi. Cho nên Phật dạy, Tuệ Quán ở nơi pháp hiện tại, không động không rung chuyển. Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác. Thực tại điểm nầy thì không động, không rung chuyển vì một điểm có thật một cách toàn diện không thêm không bớt, chính nó là nó ở đó và lúc đó (vô thời không). Vậy tri nhận thực tại điểm của giác thức nguyên sơ, chúng ta có tri thức nguyên thủy của chân trí. Thí dụ, khi gặp con bò đang đi, ta nhận diện hình ảnh con bò đầu tiên khi thấy nó (cảm giác: first sensation), nhận biết (perceive) tên con bò là nhản thức nguyên sơ (first visual consciousness, hay chơn thức: pure perception; gọi chung là tâm thức nguyên sơ); tri nhận nhản thức đó là ta có tri thức nguyên thủy (pure cognition) cuả chân trí (True mind without time). Nói khác đi, khi ta thấy (niệm đầu) con bò (perception), ta biết có tánh thấy (cognize the pure perception). Vì không có thời gian kéo dài cái tri thức nguyên thủy đó nữa nên niệm đầu (thực tại điểm) của dòng tâm thức đang lăn trôi (cái đang là), nên không có trí và thức liên hợp, tư tưởng, hay khái niệm gì về con bò cả). Đó mới thật sự Giác Ngộ mọi sai lầm của Tri Giác và Giải Thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay nói cách khác là vượt khỏi dòng sanh diệt hay thường đoạn của thế gian.
VI. Kết Luận
Thường đoạn đang lưu chuyển từng sát-na sanh diệt theo thời gian, nên chúng ta nhận thức thực tại một cách sai lầm. Muốn tri thức đúng cái nhận thức sai lầm nầy, chúng ta cần phân biệt rõ rằng thế giới hiện tượng nầy và bản chất của nó không khác. Chẳng hạn, Chơn Không Diệu Hữu là không tướng (bản chất) các pháp (hiện tượng) cũng là sự “ Sinh diệt của Tâm là do Như lai tạng mà có tâm sinh diệt. Tâm sinh diệt ấy hóa hợp bất diệt và sinh diệt một cách không phải đồng nhất cũng không phải biệt lập, và gọi là a lại da thức. A lại da thức có hai mặt, bao gồm và phát sinh tất cả các pháp; hai mặt ấy là tuệ giác và bất giác. “Bản chất và hiện tượng tuy hai mà một. Cái bất biến thường hằng thật có trong cái lưu chuyển vô thường. Nói cho cùng Chân như của Tâm là pháp tánh đồng nhất, cơ sở của tiết mục giáo pháp Phật dạy về khái niệm vĩ đại và tổng quát, Pháp tánh ấy là tâm thể phi sinh diệt. Hết thảy các pháp chỉ do phân biệt mà có sai biệt, tách rời phân biệt thì đối tượng cũng không có. Do vậy mà biết các pháp xưa nay phi ngôn ngữ, phi văn tự, phi nhận thức, tuyệt đối nhất quán, không hề chuyển biến, không thể phá hủy, toàn là tâm thể đồng nhất nên mệnh danh chân như. Mọi ngôn ngữ đều không thực chất, chỉ tùy phân biệt chứ không có gì có thể thủ đắc. Gọi là chân như thì cũng không phải là một đối tượng, mà là ngôn ngữ tột đỉnh, do ngôn ngữ ấy mà hủy bỏ ngôn ngữ. Nhưng chân như thì phi hủy bỏ, vì các pháp toàn là chân, lại phi xây dựng, vì các pháp toàn là như. Phải hiểu các pháp phi diễn tả, phi phân biệt, đó là chân như.”
Tham khảo
Đại Thừa Thuyết Luận. Phổ Nguyệt. Trích trong Tang Thư Phật Học. http://www.tangthuphathoc,net.
Kinh Nhất dạ hiền giả. HT. Thích Minh Châu Việt dịch. Trích trong website Quảng Đức: http://www,quangduc.com
Nhất Nguyên Luận. Phổ Nguyệt. Trích trong Tạng Th ư Phật Học:
Thực Tại và Chí Đạo. Phổ Nguyệt, 2002, in tại Đường Sáng Printing San Jose CA và đăng trong website Tạng Thư Phật Học.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/06/2020(Xem: 3987)
Trong thành phố nọ có hai cha con sống với nhau rất vui vẻ, hạnh phúc. Một hôm, đứa bé gái chẳng may bị bệnh và ra đi mãi mãi. Người cha quá đau khổ , tuyệt vọng, quay lưng lại với tất cả mọi người. Ông chẳng thiết tha gì với cuộc sống nữa. Ông tự nhốt mình trong phòng và khóc mãi. Một hôm, ngưòi cha ngủ thiếp đi và ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Trong giấc mơ, ông gặp một đoàn người rước đèn. Tất cả ngọn đèn đều lung linh toả sáng, trừ ngọn đèn của đứa bé cuối. Đứa bé ấy cầm một ngọn nến không được thắp sáng. Nhìn kỹ hơn, ông nhận ra đứa bé ấy chính là đứa con gấi bé bỏng của mình.
17/06/2020(Xem: 8503)
Vu Lan nhớ mẹ Cô bé mồ côi sống ở chùa Lâu nay xả bỏ những hơn thua Nợ duyên còn vướng duyên tơ thắm[1] Nghiệp chướng riêng mang chướng gió lùa[2] Nương Phật cần tu từ thuở nhỏ Kỉnh Tăng siêng học đến già nua Ly hương sum họp cùng con cháu Vui cảnh đoàn viên suốt bốn mùa
10/05/2020(Xem: 4756)
Sáng nay, sau giờ công phu thật sớm và nghe được trực tuyến buổi trà đạo của Sư Giới Đức( Mình Đức Triều Tâm Ảnh) tại Ngoạ Tùng Am( Huyền Không Sơn Thương/ Huế / VN ) về Tam đồ Bát nạn mà thế kỷ này lại thêm một nạn thứ chín là Đại dịch Corona đã làm thay đổi và xáo trộn mọi sinh hoạt từ chùa chiền đến sinh hoạt mọi người dân . Tự nhiên tôi liên tưởng đến Ngày của Mẹ năm nay đang xảy ra thật khác thường . Hơn mấy chục năm nay từ ngày tha phương nơi xứ người, Ngày của Mẹ tại Úc là một ngày lễ thật quan trọng để con cái tụ họp tri ân người mẹ, thế mà giờ đây những đứa con phương xa vẫn không thể thực hiện được vì phương tiện giao thông và luật cách giản xã hội. Thôi thì tự chuẩn bị cho mình một tách trà nóng và món điểm tâm nhẹ
06/12/2019(Xem: 8455)
Tuổi thơ được cha mẹ cận kề, chăm bẵm, chỉ bảo là điều hạnh phúc nhất của mỗi đứa trẻ. Nhưng xã hội ngày nay, vì nhiều lý do, tỷ lệ ly hôn tăng lên đáng kể, khiến nhiều em phải đối diện với cảnh gia đình ly tán. Những tổn thương tâm lý, khát khao được gần mẹ, gặp cha của các em như em bé trong bài viết dưới đây khiến người lớn chúng ta phải thực sự suy ngẫm.
25/09/2019(Xem: 5814)
Cuối cùng mùa Vu Lan tại Âu Châu cũng kết thúc vào ngày 22.9.2019 tại tu viện Viên Đức, Đức quốc. Sự trễ nải cũng có lý do chính đáng: Thứ nhất Phật tử miền Nam nước Đức vào tháng 8 còn nghỉ hè. Thứ hai, đúng rằm tháng bảy, lễ chính thức đã tổ chức tại tổ đình Viên Giác, nơi Hòa Thượng Thích Như Điển là Phương Trượng, ngoài ra, những ngày tháng khác, Hòa Thượng còn phải tham dự Vu Lan cho nhiều chùa tại Đức, đôi khi còn đi xa tận Nhật Bản, Mỹ quốc khi có nhân duyên.
18/09/2019(Xem: 5646)
Trung thu năm nay tôi về quê cũ, nông thôn bây giờ cũng đường nhựa, bê tông, đèn điện sáng trưng nhưng mới 10 giờ đêm mà nhà nhà đóng cửa im ngủ. Tôi lặng lẽ mở cửa cổng đi thơ thẩn ra bờ sông, ngồi ngắm trăng trung thu tròn vành vạnh thật bình yên thanh tịnh.
17/09/2019(Xem: 5006)
Lễ Vu Lan 2019 tại Đạo tràng Phước Huệ, Heilbronn, Đức Quốc, ngày 15-9-2019
14/09/2019(Xem: 5689)
Mưa … Mưa cho đời thêm những màu xanh. Mưa … Mưa ly hương nức nở, da diết gợi lòng người day dứt nỗi nhớ quê nao nao. Mưa… Mưa quê hương nơi miền Hà Nội từng hạt phất phơ như sương sa vướng trên mái tóc cô gái Hà Thành thật mộng mơ, diễm kiều. Mưa trên đất Cố Đô dai dẳng buồn tê tái như dáng đứng Tử Cấm Thành trầm mặc mà chỉ có Huế mới có. Mưa Đà Lạt lất phất, lành lạnh quấn quýt lấy bước chân đôi tình nhân dạo quanh hồ Xuân Hương, đã đi vào nhạc: “ Cơn mưa phùn bay qua thành phố nhỏ…” Bấy nhiêu mưa vừa kể cũng đủ làm suốt cuộc đời ta nhớ mãi không quên, chứ đừng nói tới những cơn mưa đầy ấp kỷ niệm vui buồn như Minh Kỳ mỗi lần nhớ đến là mềm cả lòng hoài niệm: “ Chiều nay mưa trên phố Huế - Biết ai đã quên ai rồi – Hạt mưa rơi vẫn rơi rơi đều, cho lòng u hoài - Ngày xưa mưa rơi thì sao - Bây chừ nghe mưa lại buồn – Vì tiếng mưa, tiếng mưa trong lòng làm mình cô đơn…”.
13/09/2019(Xem: 5656)
Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc. Chứng Minh Đại Lễ Vu Lan 2019 tại chùa Bảo Thành Koblen Đức Quốc ngày 08.09.2019. Do NS Thích Nữ Minh Hiếu Trụ Trì. Hình Ảnh Tụng trọn Bộ Kinh Địa Tạng, Kinh Lăng Nghiêm, Lễ Phóng Sanh, và Đại Lễ Vu Lan.
04/09/2019(Xem: 4751)
Xối gội luân hồi chuyện đã qua Cho lòng thanh thản và an hòa Đời trần luôn gặp nhiều phiền não Lắm cảnh thương sầu lắm xót xa!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]