Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vầng trăng ai ngã

10/04/201320:11(Xem: 4047)
Vầng trăng ai ngã

vang trang-2Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2011

Vầng trăng ai ngã

Thích Huệ Giáo

Nguồn: Thích Huệ Giáo

Hướng nhìn về vầng trăng trên cao, mỗi người trong chúng ta sẽ có rất nhiều cách nhìn và suy nghĩ khác nhau phụ thuộc vào cảm thụ, cảm thức từng người. Tùy thời điểm rung động sai biệt của con tim, vầng trăng bất động tưởng chừng như vô thức sẽ trở nên sống động và hàm ẩn nhiều ý nghĩa dạt dào. Ở đây, hình tượng vầng trăng mà tôi nói đến chính là một điểm để hướng về, một nơi qui hướng tin cậy, một nhân cách sống. Là một vầng trăng biểu tượng sự sáng ngời ở giữa bầu trời uế trược, xanh biếc bạt ngàn trong vòng xoáy nước đục bọt bèo nỗi trôi, giữa màn nhung đêm vô minh cùng tận, nhưng thanh thoát loé sáng huyền diệu lạ kỳ.
Vầng trăng tôi muốn nói đến ở đây là hình ảnh dành cho một bậc Long tượng của thiền môn. Một nhân cách có ảnh hưởng khá mạnh trong tâm thức và trong cái nhìn vào sự thật của riêng tôi. Một con người dám nhìn thẳng vào từng vấn đề cụ thể và biết thông cảm, chia xẽ. Tiếng gọi Ôn- Ôn Đổng Minh hết mực bình thường và giản dị nhưng ấm áp đến mức lạ kỳ. Tôi không biết tiếng gọi Ôn Đổng gần gũi có từ hồi nào, nhưng đối với tất cả Tăng sĩ miền trung trong thời điểm chúng tôi hay thế hệ hiện tại, Ôn thật trìu mến, và cũng quá sức nghiêm kính khi chúng tôi thoáng nhìn thấy Ôn. Tựa như, ánh trăng thì rất gần gũi tự nhiên với loài vô tình, ưu linh với loài hữu tình và chiếu sáng đến tất cả mọi nơi, nhưng cao; xa một cách hãnh diện vô bờ, thoát tục.
Thời trước, tôi thường có cơ hội được hầu cận bên sư phụ của chúng tôi và thường được tiếp xúc với những sư Chú, sư Bác - hầu hết là những cựu học Tăng xuất thân từ Phật Học viện Cao Đẳng Hải Đức Nha Trang; do đó tôi được nghe kể về nhiều hành động, phong cách sống, lối giảng dạy, cách tu tập, suy nghĩ, nhiều tâm tình dành cho thế hệ trẻ học Tăng Ni và nhiều giai thoại khác trong đời sống thường nhật của Quý Ôn như: Ôn Từ Quang ( Phước Hộ), Ôn Già lam, Ôn Trí Nghiêm, Ôn Từ Đàm, Ôn Giám Viện (Trừng Sang) Ôn Đổng Minh… Có thể nói, dấu ấn của quý Ngài đã ảnh hưởng khá sâu đậm đến tư duy của các học tăng ngày trước, thế hệ Thầy tổ chúng tôi, để giờ đây họ có đủ bản lĩnh dấn thân vào đời hành đạo. Tôi cũng như nhiều chư Tăng Ni khác hôm nay, thuộc thế hệ đàn con cháu, tuy có may mắn thọ nhận sự giáo dưỡng của quý Ngài, nhưng trên thực tế, chúng tôi chỉ thọ nhận một sự giáo dưỡng gián tiếp, vô hình; tựa như danh từ trừu tượng trong luật học thường dùng là “ Vô tác giới thể ”.
Lúc còn nhỏ, nghe quý Thầy kể đến cách giáo dục vừa dung dị, hiền hòa, hào sảng vừa nghiêm khắc của Ôn với học Tăng ngày trước. Tôi nghe sợ quá, mặc dầu lúc ấy tôi vẫn chưa được một lần hữu duyên để nhìn thẳng vào Ôn và để được hầu Ôn một tách nước. Với Ôn, tôi tựa như một kẻ lạc đường đang nhìn lên vầng trăng trên cao, khao khát tìm lại một chút ánh sáng phản chiếu chập chờn của vầng trăng trong tàn cây bụi lá, trong bóng đêm ở miền sơn cước, vừa lạnh lại vừa thảnh thơi đơn độc để tìm một lối về. Có thể do nghe kể về Ôn nhiều quá, tâm thức của tôi lúc ấy tuy còn nhỏ bé, nhưng đã có tác động mạnh, cho nên cảm thấy tự nhiên sợ Ôn làm sao, và nhiều lúc cảm thấy Ôn quá…. dữ! Ôi, nhận thức lầm lỡ một thời!
Nhớ lại, có một khoảng thời gian ngắn, tôi được sư phụ cho lên Hải đức để cùng với điệu Minh hầu Ôn Từ Đàm và ê, a học vài bài kinh chú trong hai thời công phu. Hôm đó, không nhớ cảm hứng vì việc gì, tôi cắm cúi chạy một mạch thật nhanh từ lầu chuông trên thất Ôn Từ Đàm xuống dãy nhà Tăng, thì tình cờ đối diện với Ôn, đứng sừng sững trước mặt. Tôi thất kinh đứng lại một bên và chắp tay cuối đầu đãnh lễ Ôn, không nói nhiều, Ôn nhìn tôi và bảo rằng: Bất đắt đà hài tác thinh (Không được đi dép lớn tiếng). Nhớ nghe chưa, Ôn dặn. Bạch Ôn con ghi nhớ. Rồi Ôn tiếp tục tay dù, tay quạt, chuổi hạt trên tay đi thẳng lên thất để gặp Ôn Từ Đàm. Tâm trí tôi khựng lại bởi lời chỉ giáo nhẹ nhàng của Ôn và đôi mắt vừa hiền từ vừa như nghiêm khắc, vừa chứa đựng sâu thẳm sự yêu thương, tôi ngồi bệt xuống ghế đá được đặt dài theo dãy tăng xá để trầm ngâm trong thóang chốc. Và tôi đã nhớ được điều gì? Lúc ấy, Tôi chưa được học nhiều kinh Phật, chẳng hiểu nhiều về ý nghĩa lời Phật dạy, nhưng một điều tôi được nhớ rằng Ôn Đổng hay có cách dạy chúng Tăng như vậy, nên tôi cố gắng để nhớ lời này. Đầu óc tôi lan man sau lần gặp gỡ ấy, vì sợ , sợ Ôn “mắng vốn” sư phụ tôi, sợ Ôn cho ăn roi lần sau nếu gặp lại.v.và vv.. Cứ thế thời gian trôi qua, khi đã bớt ngây thơ, khờ dạy, tôi mới biết được rằng Ôn đã dạy oai nghi cho tôi, hành trang quý báu mà tôi phải luôn khắc ghi cho đến hết cả cuộc đời. Thế là tôi đã có một biểu tượng vầng trăng soi sáng cho đời mình.
Gần hai mươi năm thấm thoát trôi qua, thời gian này khác hẳn không như hồi còn làm điệu quá sợ quý Ôn, quý Thầy. Tôi là một học tăng từ nha trang vào sài gòn đi học, tạm trú tại tu viện Quảng Hưong Già Lam, thường gặp Ôn, Ôn đi ra đi vào khi có lễ lược hoặc công việc phật sự và không khi nào học tăng chúng tôi lại không nhận được sự sách tấn của Ôn. Một vầng trăng của tất cả học tăng chúng tôi đều cùng hướng đến và soi sáng.
Cuối năm 1997, chúng tôi anh chị em học tăng khóa III Cao cấp Phật học ra trường, về nha trang tổ chức ra mắt, đảnh lễ quý Ôn, Quý Thầy trong Ban Trị sự và Thầy tổ. Lễ ra mắt hôm đó Ôn không tham dự, nhưng Ôn nhắn Anh em chúng tôi đến tư thất của Ôn để trò chuyện. Và dĩ nhiên, đọan đường kế tiếp sau khi học xong chương trình cao cấp phật học của chúng tôi được Ôn đề ra. Chúng tôi mãn nguyện vô cùng và đây là giây phút, là những lời dạy quý báu nhất chúng tôi cần có hơn tất cả, là phần thưởng dành cho chúng tôi hơn cả những phần thưởng chúng tôi có được lượm lặt trong thời gian học tập. Tăng Ni sinh chúng tôi ai có mặt lúc ấy đều mãn nguyện sung sướng và tự biết chọn cho mình một hướng đi thích hợp để tiếp tục con đư ờng học đạo và hành đạo.
Vầng trăng sáng tỏ tuyệt đẹp đó tuy trên cao nhưng rất gần gũi, luôn chiếu sáng đường đi cho mọi người trong đêm trường tối tăm. Sau buổi gặp gỡ các Tăng Ni sinh mỗi vị trình Ôn cuốn luận văn tốt nghiệp của mình, chỉ có mình tôi không có. Lý do vì tôi nghĩ rất đơn giản, đâu có gì xứng đáng để tôi dâng lên Ôn nhỉ? Do đó, tôi không chuẩn bị sẳn sàng việc này. Ôn hỏi tôi: Luận văn của Ông đâu?Tôi đáp: Dạ bạch Ôn con chưa có in, chỉ có làm 03 quyển con nộp cho Nhà trường, ban Trị sự và Bổn sư. Ôn bảo đi photocopy và gửi lên cho Ôn một cuốn đọc coi thử ra sao. Tôi vâng dạ ra về. Lúc ấy đang là mùa xuân, một mùa xuân trải dài sự ấm áp phía trước, tâm trí vừa nhẹ nhàng vì ít nhiều tôi vừa vượt quá một giai đọan dài học tập và hơn nữa, do quá nhiều công việc tại chùa vì chuẩn bị tết, đã làm cho tôi quên mất chuyện đem copy luận văn lên dâng Ôn. Sau đó, tôi liên tục nhận được lời nhắn của Ôn. Ôn nhắn khi có ai xuống chùa, nhắn qua điện thoại của sư phụ chúng tôi, cuối cùng thì tôi đã trình Ôn luận văn tốt nghiệp nhưng hơi muộn màng. Đầu năm, tôi lên đảnh lễ Ôn, Ôn đem chuyện những cuốn luận văn ra nói, Ôn không phê bình nội dung những gì tôi viết trong đó, nhưng có hỏi tôi về câu kết mà tôi đã viết kết thúc trong luận văn của mình: Sống chết là như vậy đó, đừng nên hỏi tại sao và tạo sao phải sanh tử như vậy. Ôn vừa cười vừa hỏi tại sao Ông viết ý này? Tôi im lặng không bình và nói rằng: dạ thưa Ôn con nói rồi đó, Ôn cười khà khà. Tôi lại tiếp tục được chiếu rọi ánh sáng trong vắt của vầng trăng tròn đầy tỏa sáng.
Một lần nữa vào giữa năm 2003, buổi sáng hôm đó chúng tôi thình lình nhận tin Ôn mệt lan khắp cả thành phố Nha trang. Đầu giờ chiều hôm ấy tôi và thầy Thông Huệ sắp xếp để lên hầu thăm Ôn. Lúc này, chư tăng ngồi quây quần bên Ôn, chúng tôi bước vào ngồi xuống một bên im lặng theo dõi sức khẻo của Ôn, nhìn tôi, Ôn hỏi: chừng nào ông đi Phan rang? Tôi tưởng chừng Ôn nhằm lẫn tôi với các chú đệ tử thầy Thông Huệ nên khi ấy, tôi trả lời hơi vô phép: mới bệnh nhẹ mà Ôn đã quên rồi hay sao? Hình như Ôn đã đoán được ý của tôi, Ôn lại bảo: Tôi hỏi chừng nào ông đi dạy trong Phan rang. Đi dạy! Tôi giật mình, điều mà tôi đã có ý định, nhưng chưa thưa Ôn. Tôi trả lời trong hối hận: bạch Ôn trong tuần này. Thế là Ôn đã theo dỏi từng bước chân của tôi và của tất cả thế hệ Tăng Ni trẻ Khánh hoà. Như vầng trăng luôn chiếu sáng khắp cả hang cùng ngõ hẽm, trên cành lá non vừa chớm nãy mầm trong đêm, chiếu tận lên cả ngọn cây cao khi hoàng hôn buông xuống. Dù gió có thoảng qua mặt hồ tỉnh lặng của một đêm thu buồn man mác, nhưng ánh trăng vẫn sáng và luôn làm đẹp cuộc đời.
Suy nghĩ về cuộc đời và con người giống như vầng trăng lúc tròn lúc khuyết, giống như những chiếc lá lúc vàng lúc xanh, lá nào rồi cũng rụng, rụng trước rụng sau nào ai có biết. Như những dòng sông lúc sâu lúc cạn, lúc đục lúc trong, toan tính chi vì mạng người chỉ trong hơi thở, hơi ra không vào thì đã ngã nghiêng trần thế, nhẹ vào nặng ra thì đã tím cả cuộc đời. Vầng trăng của ai đó đã ngã, nhưng ánh trăng sáng tỏa thì không của riêng ai, và không bao giờ nghiêng ngã, không ta không sở, nghìn năm vẫn hiện hữu và luôn thắp sáng như lời thơ cổ mà tôi đã học năm nao:
Khai trì bất đãi nguyệt
Trì thành tất tự lai.
Nghĩa là:
Đào ao chẳng đợi trăng sao
Khi ao có nước trăng sao hiện về.
Vầng trăng hình tướng của tôi đã ngã, tôi không biết ngoài tôi ra còn bao nhiêu vầng trăng ai ngã; nhưng trong niềm hy vọng mênh mang, tôi thầm hiểu rằng ánh sáng của vầng trăng vẫn đang tiếp tục trong xanh tỏa chiếu trên đồi cao sừng sững.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/08/2014(Xem: 6400)
Vu-lan (盂蘭; sa. ullambana), còn được hiểu là mùa báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo. Lễ Vu Lan trùng với Tết Trung nguyên, ngày Rằm tháng 7 Xá tội vong nhân của phong tục Á Đông. Vào ngày Vu-lan, mọi tù nhân ở Địa ngục có cơ hội được xá tội, được thoát sinh về cảnh giới an lành. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa, không có thân nhân thờ cúng.
03/08/2014(Xem: 11887)
Sẽ có một ngày mẹ cách xa Kiếm tìm mòn mỏi cũng không ra Sẽ không còn được gần bên mẹ Sinh tử nhịp cầu mẹ phải qua
02/08/2014(Xem: 4562)
Tuổi trời thấm thoắt đã vào Thu Rừng lá vàng rơi dệt mộng mơ Dĩ vãng đã qua nào tiếc nuối Tương lai chưa tới há mong chờ Vuốt làn tóc bạc khơi thi hứng Xoa nếp da nhăn gợi tứ thơ Nở đóa hoa lòng vui hiện tại Thong dong ta nhẹ bước vân du.
02/08/2014(Xem: 5737)
Xưa ở Nhật Bản, có một người tên Kisuke chăm sóc cha mẹ rất kính cẩn. Anh thường bị bạn bè lôi vào chốn trà đình tửu quán, nhưng anh cương quyết từ chối với một lý do rất thú vị: “Một đứa con có được thân thể là nhờ mẹ và tinh thần là nhờ cha. Vì thế không thể dẫn cha mẹ đi uống rượu”.[1] Thời nay ít ai lập luận như thế khi bị cuốn vào những trò đen đỏ, rượu chè. Có người còn cho lòng trung tín và kính cẩn đối với cha mẹ là lạc hậu. Có người, vì cờ bạc rượu chè đã giết cả cha lẫn mẹ.
02/08/2014(Xem: 4455)
Trời Sài Gòn u ám. Mưa chợt đến chợt đi, không hề báo trước. Dưới cơn mưa do ảnh hưởng của cơn bão ngoài biển Đông, dòng người hối hả. Bên lề đường, thằng bé bước những bước cô đơn, mặc cho mưa tạt gió lùa, dẫu thân gầy nhỏ bé! Chúng tôi kéo nó vào núp mưa dưới mái hiên một ngôi nhà. Nó nhướng mắt ngỡ ngàng trước hành động của người xa lạ; ẩn trong cái nhìn ấy là chuỗi những thắc mắc. Tôi liền hỏi: sao con không tránh mưa? Ướt hết rồi nè! Thằng bé vẫn đứng im, chỉ tỏ ra ngạc nhiên hơn.
01/08/2014(Xem: 5269)
Bạn sẽ như thế nào khi sáng mai vừa thức giấc, bạn tìm quanh trong ngôi nhà nhỏ của mình để nói vài lời với Mẹ, hay chỉ đơn giản là muốn Mẹ nấu một nồi canh chua thật ngon cùng những món ăn mà bạn thích để gia đình vui vầy trong ngày chủ nhật nhưng… không thấy Mẹ đâu cả , bạn gọi điện thoại cho Mẹ để hỏi thăm tình hình sức khỏe nhưng…không thấy Mẹ trả lời…Và bạn bàng hoàng khi biết được Mẹ đã đi về nơi xa lắm… Tôi đã 2 lần chết ngất trong trạng thái này khi nghe tin Mẹ tôi không còn nữa...
01/08/2014(Xem: 7341)
Cha mẹ cho con tình thương, hạnh phúc, giàu sang no ấm. Khi cha mẹ còn hiện hữu, cuộc đời này đẹp như một trời hoa, và chúng ta không phải sợ cảnh đói rách, cơ cực. Còn cha mẹ là còn được sự đùm bọc chở che, được nũng nịu như một đứa trẻ thơ dưới mắt cha mẹ. Hãy trân quý từng tấc bóng thời gian khi cha mẹ còn hiện hữu trên đời!
01/08/2014(Xem: 14207)
Tôi sinh ra đôi mắt chẳng bình thường Mỗi sáng sớm mặt trời mới tinh sương Người người mở mắt nhìn được ánh dương Riêng mình tôi nước mắt ướt lệ nhòa. Khóc cả tiếng đôi mắt mới hé mở Càng muốn mở nước mắt càng ứa nhòa Đau buốt lắm nhưng không muốn mù lòa Mở được mắt Mẹ mừng cũng muốn khóc. Tôi cảm nhận tình thương khi Mẹ khóc Mẹ muốn thay nỗi đau, tình mẫu tử Muốn cho con mắt sáng mãi không từ
01/08/2014(Xem: 4548)
Đức Phật đã nói chẳng có tình yêu thương nào lớn bằng tình yêu thương của một người mẹ dành cho con, và kêu gọi đệ tử của ngài hãy yêu thương tất cả chúng sinh như một người mẹ yêu đứa con của mình vậy! Ta mang danh là đệ tử Phật, là con Phật hằng ngày thề nguyện yêu thương tất cả sinh, nhưng hãy nhìn thật sâu sắc tình yêu thương ấy, ta phải yêu thương được cha mẹ ta trước mới yêu anh chị, yêu họ hàng, bạn bè, làng xóm, yêu đến đất nước được...đừng suy nghĩ đâu xa, đừng nói lời xáo rỗng, hãy thực hiện nó bằng cách thể hiện đạo hiếu của một người con đối với cha mẹ, đối với 2 vị bồ tát sống yêu thương, hy sinh cho chúng ta hết mực, như vậy ta mới xứng đáng là một người đệ tử, 1 người con Phật đúng nghĩa!
31/07/2014(Xem: 8307)
Mùa Vu Lan con cài hoa trắng Bao năm rồi vắng bóng Mẫu Thân Vọng nghe giọng nói tiếng cười Mẹ Mà tưởng như con mẹ cận gần ! Giờ đây lòng con càng thiếu vắng Mẹ hiền ơi ! Con đã mất Mẹ rồi ! Còn ai chia sẻ khi "mưa nắng" Bảo ban an ủi đứa con côi !..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]