Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Biểu tượng thanh cao

10/04/201318:59(Xem: 5046)
Biểu tượng thanh cao

red_rose_58
Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2009

Biểu tượng thanh cao


Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Từ trước đến giờ chúng ta thường biết đến hai câu thơ trên với hàm ý chán chê kiếp làm người, bởi kiếp người có muôn ngàn khổ đau, thà rằng làm một cây Thông đứng giữa trời còn hơn. Nhưng hình như ý của Nguyễn Công trứ không dừng ở đó
Bên đồi vách đá cheo leo
Ai mà chịu được cùng trèo với thông

Vách đá cheo leo, hình ảnh của sự nguy hiểm, bên cạnh sự nguy hiểm đó, ngọn Thông kia vẫn thong dong lớn dần theo năm tháng, với thân cây thẳng tắp và quanh năm suốt tháng gió mùa thu và cái lạnh của mùa đông không làm Thông thay đổi, lá Thông vẫn một màu xanh rì, rung nhe theo từng cơn gió thoảng, tạo nên những âm thanh vi vút như reo vui.
Phải chăng Nguyễn Công Trứ muốn nói, dù cuộc đời có nhiều gian nan đau khổ, nhưng nếu chúng ta kiên cường, kham nhẫn ,cố gắng vượt qua thì cũng có ngày chúng ta được an vui, được an nhiên tự tại như những gốc Thông kia. Đứng reo vui bên vách đá cheo leo
Ngài Hoàng Bá đã ca tụng sự kiên cường kham nhẫn của cây Mai, đã phải thấm suốt cái lạnh giá buốt của mùa đông để có được mùi hương thơm ngát qua những bông hoa nở rộ.
Trần lao khuýnh thoát sự phi thường
Hệ bả thằng đầu nhất tổ trường
Nhược bất nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc hoa mai phúc tỷ hương.

Bài dịch:
Thoát trần việc ấy rất phi thường
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường
Nếu chẳng một phen xương thấu lạnh
Hoa Mai đâu dễ ngát mùi hương.

Chúng ta cũng được nghe lời ca tụng cây Trúc, cây Mai qua bài thơ:
Vị xuất địa thời tiên hữu tiết
Đáo lai vân xứ cánh hư tâm
Hư tâm trúc hữu khuynh đầu diệp
Ngạo cốt mai vô ngưỡng diện hoa.

Bài dịch:
Có khí tiết khi chưa ra mặt đất
Vươn lên cao ngoài thẳng rỗng trong tâm
Vì thẳng tâm đầu trúc cuối đầu chào
Mai cốt cách lại nở rạt rào bên cạnh nhánh.

Nói đến Trúc tức khắc chúng ta hình dung ra một khóm Trúc, hình như Trúc không bao giờ mọc đơn lẽ một mình và cho dù tiết đông có buốt giá, màu lá Trúc vẫn xanh tươi . Qua bài thơ chúng ta biết được thân Trúc có những mắt nhỏ gọi là “tiết”mà khi thân Trúc vừa nhú ra khỏi đất chúng ta đã thấy. Thân cây Trúc thẳng và rỗng ruột, lá mọc đầu cành với tư thế cong xuống như cúi đầu chào
Thông , Trúc, Mai cả ba loại cây này có một bản chất chung là cái lạnh giá buốt của mùa đông không ảnh hưởng gì đến cây . Dù lạnh Thông và Trúc, cây lá vẫn xanh tươi, Mai vẫn nở hoa rực rỡ.
Nghiệm theo lý đạo qua từng bản chất còn lại của Thông, Mai và Trúc ta thấy được:
Thông :
- Thân cây thẳng ( tượng trưng người ngay thẳng )
- Gió thoảng không làm rụng lá ( sự bền vững )
Mai:
- Mai phải hấp thụ hết tiết giá lạnh của mùa đông mới nở hoa ( chỉ sự kham nhẫn)
- Hoa Mai chỉ mọc bên cạnh nhánh chứ không mọc ở đầu ngọn .( Chỉ sự khiêm cung)
Trúc:
- Thân trúc có những mắt nhỏ goi là tiết (Tiết tháo)
- Ruột trúc rỗng ( tượng trưng cho người quân tử)
- Cây trúc thẳng lá mọc cong cong ở đầu cành (chỉ sự khiêm cung)
Đã sanh ra trong cõi Ta Bà này , dù là người, muôn thú hay cây cỏ đều có những khổ đau bởi ngoại cảnh. Con người có đầy đủ giác quan và lý trí nên càng có nhiều cảm nhận với khổ đau.
Đường đời có muôn ngàn đau khổ bởi tâm người còn lắm tham, sân, si; Đường đạo cũng có lắm nỗi gian nan bởi chướng duyên nghịch cảnh. Nhưng, nếu chúng ta học được những bản chất thanh cao của Thông của Trúc, của Mai làm một người ngay thẳng, tiết tháo, xử sự mọi việc với tấm lòng quân tử, luôn vững tâm, kham nhẫn với những điều bất như ý là luôn khiêm cung với mọi người chung quanh. Được như vậy có lẽ chúng ta sẽ được thong dong tự tại cho dù chung quanh ta khổ đau, đau khổ vẫn luôn tiếp diễn, như Thông, Trúc và Mai luôn vững chãi, xanh tươi rực rỡ giữa tiết lạnh của mùa đông.
Và còn thêm một điều này nữa là Trúc không bao giờ mọc một mình mà lúc nào cũng mọc thành bụi thành khóm, nhờ biết liên kết như vậy nên dù có mưa to gió lớn, thân Trúc dù có mỏng manh vẫn không gãy đổ bởi cả khóm Trúc đã nâng đỡ cho nhau. Thiết nghĩ trên đường tu học chúng ta cùng nên tu chung với Tăng thân để cho Chùa được vững mạnh, bởi Chùa còn được gọi là Tùng lâm ( Rừng cây ). Rừng có nhìều cây mới phong phú, trường tồn. Mỗi chúng ta là một cây trong Tùng Lâm đó.
Mong rằng trong mỗi chúng ta hội đủ bản chất thanh cao của Thông, của Mai, của Trúc để vượt qua mọi khổ đau, chướng duyên của đời và đạo để tiến bước trên đường tìm về cội nguồn tâm linh, đến bờ giải thoát.
Thanh Phi



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4737)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4482)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5905)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 4989)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4626)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4733)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4331)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5181)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5410)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4491)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]