Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng khóc chung

10/04/201318:20(Xem: 4615)
Tiếng khóc chung

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2009

Tiếng khóc chung

Hạnh Chi

Nguồn: Hạnh Chi

Thưa Thầy,
Bốn câu thơ Thầy viết tự thuở nào mà bỗng òa vỡ lòng con, trong một đêm tháng bẩy không trăng thế này?
“Sinh ở đâu, mà dạt bốn phương
Trăm con, cười nói tiếng trăm dòng
Ngày mai nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung!”(*)

Con tưởng như có thể nghe tiếng Thầy khóc khi ngòi bút hằn xuống những nét mực nghẹn ngào này!
Đêm tháng bẩy không trăng. Đèn trong am không bật. Con ngồi im lìm đã lâu trên bồ đoàn, trước tôn tượng Phật Di Đà và bức họa Đức Quan Thế Âm lồng trong khung kính.
Con biết chắc quanh con đang rất tĩnh lặng, vậy mà, thẳm sâu từ cõi nào, tiếng Thầy khóc cho Hồn Dân Tộc vọng tới, xô dạt âm ba thủy triều của đại dương mênh mông! Mỗi câu thơ là từng tiếng nấc, mỗi nét chữ là giọt lệ rơi!
May mắn cho con biết bao, con đang được khóc cùng Thầy!
Thầy ơi,
Cha Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ sinh con trăm trứng, tưởng là năm mươi con theo Cha lên núi, năm mươi con theo Mẹ xuống biển đã là quá tan tác phân ly! Ngờ đâu đàn con Rồng cháu Tiên đó, chẳng những nay trôi “dạt bốn phương” mà “trăm con” còn “cười nói tiếng trăm dòng” nữa, thì Hồn Dân Tộc biết còn lại là bao!
Đã hết đâu, giữa mưa xứ lạ, nắng xứ người, tiếng cười tiếng nói nổi trôi theo không gian, thời gian mịt mù Đất Mẹ, có “ngày mai” nào đủ duyên “trở về quê cũ” nữa không?
Thưa Thầy, con biết lòng Thầy quặn thắt khi nét bút u uất viết lên giòng chữ này! Vâng, con biết Thầy đau đớn! Có thể lệ Thầy đã rơi xuống tách trà sớm mai ấy khi viết câu “Ngày mai nếu trở về quê cũ”.
Trở về thế nào mới là trở về quê cũ? Chắc chắn, không phải chỉ là tấm thân tứ đại, tới một miền đất như kẻ du lịch tò mò. Về như thế không phải là trở về, mà là đi, là đến. Ta chỉ cảm thấy ta trở về đâu, khi nơi ấy có tiếng gọi thầm thì của sự thân thương tiềm ẩn, của hồn thiêng sông núi, của ân nghĩa tổ tiên, của những ký ức đã cho ta vào đời …
Thầy thường lặng thinh trước tách trà, với những đến rồi đi. Thầy lặng thinh chờ đợi sự trở về hiếm hoi. Đợi, mà thực chẳng đợi vì:
“Đường lịch sử bốn nghìn năm dợn sóng
Để người đi không hẹn bến bờ” (*)

Thế nên, dù trà đã nguội, hương đã phai, Thầy vẫn điềm nhiên một mình nâng tách. Sớm mai có giọt sương mỉm cười cùng Thầy, xế trưa có vệt nắng ghé thăm, giấc chiều có ngọn gió hỏi han, rồi đêm xuống, ánh trăng chẳng quên tình tri kỷ, vào thư phòng cùng Thầy thiền tọa an nhiên. Đợi, mà chẳng đợi là thế, khi:
“Khuya sớm sáng chong Đèn bát Nhã
Hôm mai rửa sạch nước Ma-Ha” (**)

Mỗi khi con ngu si, khởi thắc mắc những điều chẳng đáng thắc mắc Thầy lại nhẹ nhàng nhắc con một câu Đức Phật từng nói “Kẻ nào không thấy Pháp, kẻ ấy không thấy ta, dù đang nắm viền áo Tăng Già Lê, theo ta từng bước. Kẻ nào thấy Pháp, kẻ ấy thấy ta, dù đang cách xa ta vạn dặm.”
Đêm nay, con cảm nhận trọn vẹn nghĩa ân sư khi con được khóc cùng Thầy. Con cũng biết, chẳng phải riêng con, mà trong “Trăm con, cười nói tiếng trăm dòng” kia, chúng con từng đủ duyên nhìn thấy nhau để được cùng khóc với Thầy, cùng chia sẻ với nhau tấm lòng Thầy: “Hy vọng ta còn tiếng khóc chung”.
Hy vọng đó chẳng là có. Tuyệt vọng kia cũng chẳng là không vì lịch sử không ngừng chảy theo dòng Thành Hoại Trụ Diệt. Có thịnh nào không suy, có thể chế nào không tận, có quyền uy nào không tàn, nên việc vun bồi trí tuệ cho thế hệ con em để chuyển hóa những khổ đau hiện tại là thiện sự, là cần làm, đáng làm.
Thầy đã, và đang lặng lẽ làm điều đó bằng chính bản thân và tim óc mình cho hàng hậu học.
Phàm phu đã, và đang vô minh bóp méo để bôi bẩn điều đó với trục lợi huyễn hoặc vô thường.
Đêm tháng bẩy không trăng chợt sáng lên trong con lời Đức Phật nói trong kinh Kokàliya:
“Cái gì trống thì cái ấy kêu to
Cái gì đầy thì cái ấy im lặng”

Thầy ơi! Nhờ ơn Thầy, con đã biết mỉm cười trong tiếng khóc chung.
NAM MÔ VÔ BIÊN THÂN BỒ TÁT.

Hạnh Chi
(Cuối mùa Trăng tháng bẩy, 2009)



(*)TT Tuệ Sỹ
(**)Thiền sư Huyền Quang, đời Trần



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/07/2014(Xem: 9316)
"Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới tỏa khắp rạch sông" Được làm người công đức của cha ông Nên danh phận cảm nhờ ơn xã hội Chúng ta được thân làm người, là nhờ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhiều nhân duyên hội tụ. Chúng ta được khôn lớn nên người là nhờ ở sự trưởng dưỡng, giáo dục của Cha, Mẹ, Thầy, Cô và Xã Hội. Công ơn to lớn ấy, trong kinh Phật đã dạy có Bốn Đại trọng ân: 1/ Ơn Quốc gia, thủy thổ, 2/ ơn Cha, Mẹ, 3/ Ơn Tam bảo, 4/ Ơn Đàn na tín thí (xã hội), trong đó công ơn của cha mẹ là to lớn nhất, sánh bằng non biển, không thể bút mực nào tả xiết. Chỉ có tri niệm và thực hành mới hy vọng có một chút đáp đền. Đức Phật đã dạy rằng: công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn, với sự hy sinh cao đẹp, “bên ước mẹ nằm, bên ráo phần con”, thật là “ Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ, gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha”, Thương và lo cho con nên “miễn sao có lợi thì làm, chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm…”.
29/07/2014(Xem: 25656)
Hồng đỏ cài lên đẹp tuyệt vời Phải nên trân trọng nhé người ơi! Những ai còn mẹ còn hồng đỏ Màu đỏ thắm tươi vẻ rạng ngời
24/07/2014(Xem: 4758)
Tối nay ngồi vẽ Mẹ. Một người Mẹ của đồng quê đất Việt. Da mặt Mẹ đã xạm đen vì dãi dầu. Đôi mắt Mẹ đã trĩu xuống vì suy nghĩ, vì chịu đựng, vì lo lắng cho các con. Đôi môi Mẹ đã khô khan nứt nẻ, vì tranh thủ, vì buôn bán, vì cãi cọ, vì van xin, vì cầu nguyện.
24/07/2014(Xem: 4579)
Vu Lan là lễ truyền thống lâu đời có từ thời Đức Phật còn tại thế hơn 2,500 năm trước; đồng thời cũng là lễ tiết quan trọng phổ thông của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa mà tổ tiên chúng ta đã giữ gìn qua nhiều thế hệ. Lễ tiết Vu Lan hay Vu Lan thắng hội gắn liền với lễ giải Hạ - Tự tứ của Tăng đoàn Phật Giáo. Lễ Tự tứ có nghĩa là sau những tháng ngày tịnh tu Giới - Định - Tuệ, ba nghiệp của hành giả sâu lắng thanh tịnh; hai vị Tỳ kheo đối thú nhau chân thành bày tỏ khởi đi từ đạo tình cao quý nhẹ nhàng trong sáu tiếng: thấy tội, nghe tội, nghi tội, những mong đợi vị thầy đối diện chỉ bày cho ta thành tâm sám hối trước hội chúng và Tam Bảo, nguyện cải đổi không tái phạm, nếu xét thấy mình có tội. Thật là thành khẩn, cao đẹp trong hòa hài, từ bi, nhẫn thuận, bình đẳng. Nhẹ nhàng nhưng mang chất liệu tuệ giác tự thân và san sẻ với giác tha của người đối diện kết nên vòng nhân duyên thù thắng hầu tiến đến giác hạnh viên mãn.
24/07/2014(Xem: 4563)
Mỗi mùa Vu Lan đến Biết bao dòng lệ rơi Cho tình vô bờ bến Bày tỏ không nên lời Nghẹn ngào trong nước mắt Tưởng nhớ đến mẹ cha Ân tình cao chất ngất Suốt đời đã bôn ba
19/07/2014(Xem: 5169)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phật giáo chủ trương nhân quả theo nhau như hình với bóng, nghĩa là người gây nhân lành ắt sẽ hưởng quả tốt, ngược lại kẻ tham lam, vị kỷ, độc ác... chỉ biết lợi mình, không kể đến hậu quả làm phiền lụy khổ đau cho tha nhân, rộng ra là cả sinh linh vạn loại, đương nhiên sẽ gặp những phiền toái, chịu đựng những trách móc, oán hận của những nạn nhân, hay khi xả bỏ cuộc sống sẽ lãnh sự trừng phạt trong 3 ác đạo mà thế nhân hay tín ngưỡng nào cũng nghĩ bàn để khuyến miễn người đời phải lo tu thân hành thiện, làm đẹp nhân sinh. Mùa Vu Lan báo hiếu phát xuất từ đức Mục Kiền Liên kiếm tìm, thăm viếng rồi giải thoát mẹ ngài khỏi cảnh giới ngạ quỷ, có từ thời đức Phật còn tại thế; văn hóa thế nhân có từ khi loài người hướng về nẻo thiện. Gần chúng ta là văn hóa Á Đông, lấy nhân luân làm căn bản: Hiếu, đễ, tru
18/07/2014(Xem: 5090)
Nhờ năng lực của Tăng đoàn mà mẫu thân của ngài Mục Kiền Liên được thoát khỏi cảnh bi thống nơi chốn địa ngục. Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp là năng lực vô biên hóa giải được khổ đau từ cõi vô hình cho đến thế giới con người. Trọng tâm của Giáo hội chúng ta đặt ở sự hiệp lực này, trong ấy những Phật sự hằng năm của Giáo hội, tất cả tăng ni và thiện tín cùng nhau chung lo. Bốn phật sự thường xuyên của Giáo hội mà mỗi thành viên đều chung sức chung lòng đó là: Phật đản, An Cư, Khóa Tu Học Bắc Mỹ và Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ.
15/05/2014(Xem: 7296)
Hôm nay ngày giỗ của Ba tôi, tự dưng lòng tôi thèm viết một chuyện gì đó về Ba tôi…như nhà văn Võ Hồng thường khuyên mọi người nên viết lại những kỷ niệm sinh hoạt của cha, của mẹ mình, những kỷ niệm mà mình nhớ hơn hết, đáng nhớ hơn hết…để nhân ngày k?giỗ của cha mẹ, tập trung về, cùng đọc, cùng nghe, cùng xúc động, hồi tưởng công ơn. Con cháu sẽ có dịp sống lại không khí đại gia đình, con nhớ thương cha mẹ, cháu gần gủi, quý trọng ông bà!
16/10/2013(Xem: 20035)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
16/10/2013(Xem: 15625)
Kính lạy vong linh cha, Khác biệt với muôn ngàn trường hợp khi cầm viết đặt lên giấy. Con ghi lại vài nét – chỉ vài nét thôi về đời sống của cha – một người cha có lắm điều độc đáo, không những chỉ trong hàng con cháu mà bất cứ ai cũng công nhận là hãn hữu và cần rút tỉa những điểm son để soi sáng vào nếp sống của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]