Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai mẩu chuyện cùng một sự kiện

10/04/201317:41(Xem: 4663)
Hai mẩu chuyện cùng một sự kiện

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2008

Hai mẩu chuyện cùng một sự kiện

Thích Phước Sơn

Nguồn: Thích Phước Sơn

Hằng năm cứ đến ngày rằm tháng bảy, khi trời đất chuyển sang thu, thì trong mỗi trái tim của người con Phật xuất gia thường in đậm bằng 2 dấu ấn. Đó là ngày lễ Tự tứ, kết thúc 3 tháng An cư kiết hạ và dịp lễ báo hiếu đối với ân đức sinh thành. Nói đến sự báo hiếu, chúng ta không thể không nhớ đến hình ảnh hiếu thảo chấn động thiên địa của tôn giả Đại hiếu Mục-kiền-liên. Đề cập đến tôn giả Mục-kiền-liên, chúng ta không thể không nhớ đến kinh Vu-Lan-Bồn - một áng văn thiên cổ bất hủ. Thế nhưng, ngoài áng văn diễm lệ nầy - mà mọi người chúng ta đều biết - còn một mẩu chuyện báo hiếu khác khá lý thú tương tự như thế, mà có lẽ nhiều người chưa được rõ lắm. Đó là điều mà người viết muốn giới thiệu cùng quí độc giả kính mến nhân dịp lễ Vu Lan báo hiếu nầy vậy.

I. NỘI DUNG HAI TƯ LIỆU.

Để hiểu rõ nội dung của 2 tư liệu nầy chuyên chở những gì, chúng ta có thể tóm tắt đại khái như sau:
1. Nội dung kinh Vu Lan Bồn (1)
Kinh nầy do Phật thuyết cho Đại chúng, tại tịnh xá Kỳ Viên, được tôn giả A-Nan (Ananda) thuật lại thế nầy:
Lúc ấy, tôn giả Đại Mục-kiền-liên vừa thành tựu 6 pháp thần thông, muốn báo đáp ân đức sinh thành của cha mẹ, bèn dùng thiên nhãn quán sát khắp thế giới, thì thấy mẹ mình hiện sinh trong loài ngạ quỉ, không được ăn uống, da bọc lấy xương. Tôn giả liền dùng bát đựng cơm, đem hiến cho mẹ. Nhưng mẹ ngài do tội chướng quá nặng, cơm biến thành than lửa, không thể ăn được. Tôn giả liền trở về, thống thiết bạch lại tình cảnh vừa rồi với đức Phật. Phật dạy rằng muốn cứu được mẹ tôn giả phải nhờ đến thần lực của chư Tăng trong 10 phương. Nhân dịp rằm tháng 7, ngày chư Tăng Tự tứ nên sắm các phẩm vật thiết dụng, hiến cúng cho Thập phương đại đức chúng Tăng. Vì ngày nầy chư hiền tháng Tăng đều bình đẳng thọ cơm Tự tứ. Nương nhờ giới thể thanh tịnh, pháp lực nhiệm mầu của thánh chúng mà cha mẹ hiện tại của thí chủ được trường thọ, hạnh phúc; cha mẹ quá khứ trong 7 đời thoát khỏi khổ thú, sinh về cảnh giới an lành.
Vâng lời Phật dạy, tôn giả Mục-kiền-liên sắm sửa đủ các phẩm vật, thành kính dâng cúng chư Tăng trong dịp Tự tứ. Thế rồi, chư Tăng thọ lễ cúng dường, thành tâm chí nguyện. Chính nhờ sức chú nguyện nầy mà thân mẫu của ngài ngay trong ngày ấy, thoát được nỗi thống khổ của kiếp ngạ quỉ.
Hân hoan trước thành tích cứu được mẹ mình thoát khỏi khổ đau, nên tôn giả thỉnh cầu Phật chỉ giáo thêm về cách thức báo hiếu. Nhân đây, Phật dạy rằng tất cả mọi người, trong hiện tại cũng như trong đời vị lai, ai muốn chu toàn hiếu hạnh, báo đáp, ân đức sinh thành của cha mẹ, thì hằng năm cứ đến ngày rằm tháng bảy, đem lòng hiếu thảo tưởng nhớ song thân, sắm các phẩm vật hiến cúng Phật cùng Thánh Chúng, để báo đáp ân đức từ ái nuôi dưỡng của cha mẹ. Là con Phật, thì ai cũng nên tuân giữ truyền thống báo hiếu nầy.
Đại khái, đó là tóm lược nội dung của kinh Vu Lan Bồn.
2. Nội dung chuyện "Mẹ trưởng lão Xá-lợi-phất" (2)
Chuyện nầy do đức Đạo Sư kể lại với Đại chúng tại tịnh xá Trúc Lâm:
Thuở xưa, tại Ba-la-nại có một gia đình Bà-la-môn đại phú. Bản tính ông chồng hiền đức, chăm làm việc phước thiện, nhưng tính tình bà vợ thì keo kiệt, ác độc. Một hôm ông có công việc phải đi xa, căn dặn vợ ở nhà hễ khi nào có Sa-môn hay bất cứ khách nào đến nhà thì tùy theo khả năng mà bố thí cho chu tất. Nhưng khi ông đi rồi, bà vợ ở nhà cắt đứt phần cúng dường cho Sa-môn, đối xử tệ bạc với các lữ khách khác, và buông lời nhục mạ, nguyền rủa họ. Do ác hạnh ấy, bà tái sinh làm thân nữ ngạ quỉ, chịu đủ muôn phần khốn khổ. Bấy giờ, bà nhớ lại những quyến thuộc xa xưa, biết được người con trai của bà thời quá khứ hiện nay là một trong hàng đại đệ tử của Phật, có danh tiếng và uy đức lớn. Bà liền thân hành tới đó xin gặp tôn giả. Vừa trông thấy mặt nữ ngạ quỉ xấu xí gầy gò ấy tôn giả đã động lòng thương cảm, hỏi bà là ai, cần đến việc gì mà thân hình tiều tụy khốn khổ như thế, thì bà cho biết: Trong tiền kiếp, bà là mẹ của tôn giả, do ác hạnh hủy nhục những người đến cầu xin vật thực mà phải đọa vào cảnh giới ngạ quỉ, chịu mọi nỗi đói khát, thống khổ. Nay đến cầu xin tôn giả làm phước, bố thí, để hồi hướng công đức cứu bà thoát khỏi u đồ.
Thế là ngày hôm sau, tôn giả cùng với 3 pháp hữu khác là Đại Mục-kiền-liên (Mahàmoggallàna), A-na-luật-đà (Anuruddha) và Kiếp-tân-na (Kappina) đi đến đại vương Tần-bà-ta-la (Bimbisàra), rồi tôn giả Mục-kiền-liên trình bày lại sự việc đã xảy ra cho vua nghe và thỉnh cầu vua giúp đỡ để tôn giả Xá-lợi-phất hoàn thành nghĩa vụ báo hiếu. Nghe vậy, nhà vua hoan hỉ hứa khả, rồi sai cận thần xây cất am thất và sắm sửa các thức cúng dường, đoạn nhà vua thân hành đem chúng hiến dâng cho trưởng lão Xá-lợi-phất. Sau đó, trưởng lão thiết lễ trai tăng đem các phẩm vật ấy cúng dường lên tăng chúng khắp thế gian do đức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức nầy cho nữ ngạ quỉ.
Nữ ngạ quỉ nhờ hưởng được công đức ấy, liền tái sinh lên cõi trời. Ở đây, bà có đủ mọi thứ cần thiết của một thiên nữ, hưởng mọi lạc thú của cảnh giới chư thiên. Rồi một hôm, bà đi đến chỗ tôn giả Đại Mục-kiền-liên, kể lại cho tôn giả nghe tất cả mọi chi tiết trong 2 kiếp tái sinh làm ngạ quỉ và thiên nữ của mình.
Đó là đại ý câu chuyện Mẹ trưởng lão Xá-lợi-phất mà trong "Ngạ quỉ sự" đã trình bày.

II. SO SÁNH 2 MẨU CHUYỆN

Xuyên qua nội dung 2 mẩu chuyện vừa được tóm tắt ở trên, ta có thể rút ra một số điểm dị đồng giữa chúng như sau:
1. Những điểm giống nhau
Trọng tâm câu chuyện của 2 tư liệu trên xoay quanh sự kiện một bà mẹ trong tiền kiếp gây nên ác hạnh, do đó hiện kiếp bị đọa làm nữ ngạ quỉ, chịu đủ mọi nỗi đói khát, thống khổ. Thế rồi, nhờ người con trong đời trước của mình hiện là đại đệ tử của đức Phật có danh tiếng, và đức hạnh, sắm sửa lễ vật cúng dường cho chư Tăng trong 10 phương do đức Phật lãnh đạo. Chính nhờ công đức cúng dường ấy mà nữ ngạ quỉ kia thoát khỏi thân quỉ đói, sinh về cảnh giới an lành.
Tóm lại, đây là câu chuyện nhiệt thành báo hiếu của một người xuất gia đệ tử của Phật đối với thân mẫu trong đời quá khứ. Và nhờ sức chú nguyện của thập phương hiền Thánh Tăng mà hóa giải được ác báo chuyển thành thiện quả. Đó là tóm tắt những điểm tương đồng giữa 2 mẩu chuyện. Và sau đây là vài chi tiết dị biệt.
2. Những điểm khác nhau
Về chỗ khác nhau, có mấy chi tiết sau đây:
- Trong kinh Vu Lan Bồn (VLB) cho biết nữ ngạ quỉ ấy là mẹ quá khứ của tôn giả Mục-kiền-liên (MKL); Còn chuyện Mẹ trưởng lão Xá-lợi-phất (MTLXLP) thì nữ ngạ quỉ ấy là mẹ quá khứ của tôn giả Xá-lợi-phất (XLP).
- Kinh VLB nói chính tôn giả MKL đi tìm mẹ; Còn chuyện MTLXLP thì nữ ngạ quỉ kia đi tìm tôn giả XLP.
- Kinh VLB nói rõ ngày tổ chức cúng dường là rằm tháng 7, nhân dịp thập phương Tăng Tự tứ; Còn chuyện MTLXLP không xác định rõ thời điểm cúng dường.
- Kinh VLB cho biết phẩm vật cúng dường do chính tôn giả MKL sắm sửa; Còn chuyện MTLXLP thì nói rằng vua Tần-bà-ta-la đã hiến dâng phẩm vật để tôn giả XLP chu toàn phận sự cúng dường.
- Kinh VLB chỉ nói nữ ngạ quỉ ấy thoát khổ cảnh khổ của cõi ngạ quỉ; Còn chuyện MTLXLP thì cho biết vị ấy sau khi được sinh lên Thiên giới bèn trở lại trần gian kể cho tôn giả MKL nghe về tình trạng hiện tại của mình.
- Kinh VLB chủ yếu Phật trao đổi với tôn giả MKL và nhắc nhở chúng Tăng khi thọ trai phải chú nguyện cho thí chủ, đồng thời khuyên mọi người con Phật nên noi gương báo hiếu của tôn giả MKL; Còn chuyện MTLXLP thì Phật không khuyên bảo việc đó. Ở đây, ngoài tôn giả XLP còn có sự hiện diện của 3 pháp hữu của tôn giả và vua Tần-bà-ta-la.
- Kinh VLB Phật thuyết tại tịnh xá Kỳ Viên; Còn chuyện MTLXLP Phật thuyết tại tịnh xá Trúc Lâm.
- Kinh VLB không có trong Đại tạng Nam truyền, cũng như chuyện MTLXLP chưa được dịch sang Hán tạng.
Trên đây là tóm lược vài nét giống và khác nhau giữa 2 mẩu chuyện, còn những chi tiết nhỏ nhặt khác thì không cần phải đề cập đến. Thế nhưng, có một điểm khá nổi bật mà chúng ta cần tìm hiểu, đó là vấn đề ngạ quỉ trong kinh điển Phật giáo.

III. SỰ TÍCH NGẠ QUỈ

Thông thường nhân gian Ấn Độ có 2 hình thức tín ngưỡng rất phổ biến, đó là tín ngưỡng chư thiên và ngạ quỉ. Các chúng sinh nầy thường ở cách xa trú xứ của chúng ta, như ở những nơi ven núi, bờ sông, chỉ khi nào chúng ta đi lạc đường mới gặp được họ. Theo truyền thuyết của Bắc phương thì Tăng Hộ (Sangharaksita) sau khi đi tham học trở về nước theo đường biển, do bị lạc đường mà trông thấy ngạ quỉ (3). Trường hợp Ức-nhĩ (Srona-kotikotikarra) cũng do lạc đường mà gặp ngạ quỉ giống như Tăng Hộ (4). Đồng thời trong "Ngạ quỉ sự" thuộc Nam truyền cũng nói trường hợp vua Phisigala do lạc đường mà thấy ngạ quỉ (5). Ngoài ra chuyện ngạ quỉ còn được ký tải ở các chỗ khác, như:
- Phật thuyết Quỉ vấn Mục-liên kinh, gồm 17 chuyện, theo truyền thuyết thì do An Thế Cao dịch, nhưng được ghi nhận là Thất dịch, thuộc đời lưỡng tấn. (6)
- Phật thuyết Tạp Tạng kinh, 1 quyển, do Pháp Hiển đời Tấn dịch, khoảng năm 416 CN. Phần đầu quyển nầy trình bày việc quỉ hỏi và Mục-liên đáp gồm 17 chuyện, tương đương với bộ kinh kể trên. Kế đến 4 chuyện cuối nói về Thiên sự: Chuyện 1 và 3 thì Mục-liên hỏi, thiên đáp. Chuyện 2 và 4 thì thể tài không đồng nhất. (7)
- Ngạ quỉ báo ứng kinh, gồm 35 chuyện, thuộc về loại kinh Thất dịch (mất tên người dịch) đời Đông Tấn. Mười bảy chuyện của 2 bộ kể trên phần lớn đều bao hàm trong kinh nầy. (8)
- Trong kinh Tạp A-hàm có nói về trường hợp Mục-kiền-liên từng thấy nhiều quỉ, rồi nhân La-sát (Laksana) hỏi, thầy trình bày lại nghiệp nhân của ngạ quỉ trước đức Phật. (9)
- Điều Ba-la-di thứ tư của kinh Phân Biệt thuộc Đồng Diệp luật cũng nói đến ngạ quỉ. (10)
Chung quy, các sự tích ngạ quỉ trong hệ thống kinh điển Bắc truyền thường được trình bày theo thể văn xuôi, còn chuyện ngạ quỉ trong kinh điển Nam truyền thì chủ yếu được trình bày theo lối vấn đáp bằng kệ tụng.
Theo Đại sư Ấn Thuận thì diễn tiến hình thành ngạ quỉ sự có trước thiên cung sự, và 2 vấn đề nầy liên quan mật thiết với nhau. Như các chuyện 17, 37 và 39 của Ngạ quỉ sự và các chuyện 83, 84 và 52 của Thiên cung sự thuộc kinh điển Nam truyền là hoàn toàn tương đồng với nhau. (11)
Xuyên qua những gì được trình bày trên đây gợi cho chúng ta nhớ đến một vấn đề rất hệ trọng. Đó là sự tri ân, báo hiếu. Vì các loài động vật khác chỉ có thiên tính nuôi con mà không có ý thức báo hiếu. Chính cái đức báo hiếu mẹ cha, tôn kính sư trưởng mới khẳng định được phẩm giá và địa vị của con người là cao quí và tốt đẹp hơn tất cả mọi sinh vật thấp kém khác đang hiện hữu trên hành tinh nầy./.






CHÚ THÍCH

(1) Kinh Vu Lan Bồn, HT. Trí Quang dịch giải, xb. P.L 2515.
(2) Chuyện "Mẹ trưởng lão Xá-lợi-phất" trong Ngạ quỉ sự, do G.S Trần Phương Lan phiên dịch (sắp xuất bản).
(3) Nhân duyên Tăng hộ kinh, Đ.17, tr. 565c - 572b.
(4) Thập Tụng luật, quyển 25, Đ.23, tr. 178a-180b. Căn bản thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tì-nại-da, Bì cách sự, quyển thượng, Đ.23, tr. 1048c-1051b/
(5) Ngạ quỉ sự, Tạng Nam truyền, tập 25, tr. 87-94.
(6) Phật thuyết Quỉ vấn Mục-liên kinh, Đ.17, tr. 535b-536b.
(7) Phật thuyết Tạp Tạng kinh, Đ.17, tr. 557-560b.
(8) Ngạ quỉ báo ứng kinh, Đ.17, tr. 560b-562b.
(9) Tạp A-hàm kinh quyển 19, Đ.2, tr.135a-139a. Tương Ưng bộ, Lặc-xoa-na tương ưng, Nam truyền, tập 13, tr. 377-387.
(10) Đồng Diệp Luật, kinh Phân Biệt, Nam truyền, tập 1, tr.575-580.
(11) Nguyên thỉ Phật giáo Thánh điển chi tập thành, Ấn Thuận Trước, Đài Bắc xb. 1988, tr. 851.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4685)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4432)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5857)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 4941)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4582)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4703)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4259)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5135)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5374)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4451)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]