Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo hiếu và phong hóa gia đình

10/04/201317:40(Xem: 5214)
Đạo hiếu và phong hóa gia đình

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2008

Đạo hiếu và phong hóa gia đình

Huỳnh Ngọc Trảng

Nguồn: Huỳnh Ngọc Trảng

Rất phổ biến là các huyền thoại khai nguyên tộc người, những sáng thế luận của các tôn giáo đều giống nhau ở chỗ sáng tạo ra một cặp nam nữ đầu tiên ở buổi hồng hoang xa xăm của lịch sử. Một người đàn ông, một người đàn bà và con cái của họ là hình ảnh của tế bào gia đình nguyên sơ mà ngày nay, trong xã hội hiện đại, đang trở thành mô hình thời thượng. Thật ra, trong lịch sử chúng ta đều biết cấu trúc gia đình có những quy mô lớn hơn: bầy đàn, thị tộc, bộ lạc, tông tộc, cộng đồng làng xóm… Ở đó nhiều thế hệ sống và lao động liên kết nhau, ở đó nhiều tấm gương của tổ tiên tiếp tục soi sáng cho bao đời sau, ở đó bảo lưu lâu dài các phong tục, ở đó những việc thờ cúng mang tính chất tín ngưỡng hay tôn giáo đã bắt rễ và ăn sâu… Và ở đó, một thiết chế có luật lệ, tôn ti được xác lập, có thể làm ngột ngạt cho một số người, nhưng lại mang đến sự ổn định và an toàn cho tất cả. Hiếu kính với cha mẹ, nói rộng là hiếu đễ (hiếu kính với cha mẹ, kính thuận với anh em) ra đời từ nhu cầu quy phạm hóa, thể chế hóa mối quan hệ của thành viên gia đình. Các bộ luật cổ của xứ ta đều xác định tội bất hiếu, bất mục là trọng tội, thuộc “thập ác” (mười trọng tội hàng đầu). Nói cách khác, hiếu là một chuẩn mực đạo đức đã được thể chế hóa, được xác định là nghĩa vụ, là trách nhiệm mà mỗi người phải tuân thủ và đã trở thành giá trị, quan niệm phổ biến.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Theo đó, làm con phải có trách nhiệm đền đáp công sinh thành dưỡng dục. Một cách cụ thể, công lao khó nhọc của cha mẹ đối với con cái được xác định vào 9 việc - gọi là “chín chữ cù lao”: 1. sinh (đẻ); 2. cúc (nâng đỡ); 3. phủ (vuốt ve/âu yếm); 4. xúc (cho bú); 5. trưởng (nuôi nấng cho lớn mạnh); 6. dục (dạy dỗ); 7. cố (đoái tưởng đến); 8. phục (săn sóc); 9. phúc (bảo vệ).
Đã đành lý lẽ là như vậy, nhưng điều cần lưu ý là đạo hiếu vốn là tình cảm tự nhiên. Cũng có ý kiến rằng tình mẫu tử, phụ tử tương tác là một nhiên tính bản thể (như gà mẹ chiu chắt đàn con, hổ dữ không ăn thịt con, v.v…)
- Chiều chiều chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
- Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng,
Thương cha nhớ mẹ quá chừng
bậu ơi!
(Thương cha nhớ mẹ thì về,
Nhược bằng thương cảnh, nhớ quê thì đừng).
Lưu ý đến căn nguyên tình cảm tự nhiên của đạo hiếu ở đây là muốn nhấn mạnh đến mối ràng buộc thiêng liêng của con cái đối với cha mẹ. Nói cách khác, hiếu thảo là một mặt và cái cách thể hiện đạo lý đó là mặt thiết yếu khác. Trả hiếu cho cha mẹ không chỉ thuần là nghĩa vụ phụng dưỡng hoặc tân tiến hơn là cung cấp đủ các khoản chi phí cho nhà dưỡng lão, để ở đó người ta lo cho cha mẹ mình.
- Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường
mía lau.
- Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con.
- Đêm đêm thắp ngọn đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Chúng ta có thể dẫn ra nhiều câu ca dao liên quan đến vấn đề hiếu đạo và tuồng như hầu hết đều hàm chứa cái tình nhiều hơn cái nghĩa. Đó là điều lý giải tại sao một tiếng chim kêu chiều, một bóng núi mờ xa… đã làm chúng ta bâng khuâng, da diết nhớ đến song thân ở quê nhà… Hơn cả một nghĩa vụ, hiếu có nguồn cội sâu xa trong tâm khảm mỗi chúng ta chứ không chỉ ở lý trí.
2. Một hôm, Tử Du hỏi về hiếu, Khổng Tử nói: “Kim chi hiếu giả, thị vi năng dưỡng. Chí ư khuyển mã, giai năng dưỡng. Bất kính hà dĩ biệt hồ?” (Hiếu ngày nay là bảo có thể nuôi cha mẹ; đến như giống chó, giống ngựa đều có người nuôi. Nuôi mà không kính lấy gì phân biệt?). Hiển nhiên, người có hiếu trước hết phải nuôi cha mẹ. Nuôi thì phải kính, nếu không kính thì không là hiếu. Như vậy, việc phụng dưỡng cha mẹ cốt tủy là ở sự thành kính, dầu phải ăn gạo xấu, uống nước lã mà làm cho cha mẹ được trọn vui, ấy gọi là hiếu (“Xuyết thúc ẩm thùy, tận kỳ hoan, tư chi vị hiếu”/ Lễ ký. Đàn cung hạ).
Hiếu là phạm trù luân lý cơ bản của Nho gia: là gốc của nhân luân, là nguồn của đạo đức. Hiếu kinh viết: “Xét ra hiếu là gốc của đức, là nguồn sinh ra giáo hóa” (Phù hiếu đức chi bản dã, giáo hóa chi sở do sinh dã). Về nội dung của hiếu, Nho gia cho rằng: Hiếu bao gồm từ việc có kế thừa được di chí và sự nghiệp của tổ tiên hay không, tình cảm hiếu kính đối với cha mẹ có xuất phát từ nội tâm hay không và sự phụng dưỡng, ma chay, tế tự có giữ nghiêm lễ chế hay không v.v… Hiếu kinh tổng kết về hiếu cụ thể như sau: 1. Da, tóc, thân thể nhận từ cha mẹ nên chẳng được làm cho thương tổn hay hủy hoại; 2. Lập thân hành đạo với đời để cho cha mẹ được hiển vinh là sự thể hiện trọn vẹn đạo hiếu. Hiếu bắt đầu từ thờ cha mẹ, kế đó là thờ vua và cuối cùng là lập thân. Nói chung, hiếu của Nho gia có những nhân tố hợp lý như tôn kính, phụng dưỡng cha mẹ, nhưng cũng có điều phi lý hoặc lỗi thời như chuyện để râu, tóc, móng tay chẳng cắt gọt; hoặc như coi việc không có con trai nối đời là bất hiếu (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại), hay việc cha mẹ còn không được đi xa… Cái mục đích của hiếu là nhắm đến việc giáo hóa đạo nhân và việc thực hành đạo hiếu là đặt cơ sở trên lý trung dung. Tuy nhiên, trong lịch sử, có những cố chấp vào hình thức, bày ra nhiều cách phiền toái làm mất đi yêu cầu chủ đạo là cung kính và thành thực; lại không quán triệt tinh thần trung dung của chính Nho giáo nên câu chấp điều vụn vặt không hợp thời, hợp cảnh.
3. Ở xứ ta, nói đến hiếu đạo thường nhắc đến 24 gương hiếu tử trong Nhị thập tứ hiếu diễn âm do Lý Văn Phức (1785-1849), dịch từ sách Nhị thập tứ hiếu của Trung Quốc. Lý Văn Phức làm quan trải các triều Minh Mệnh, Thiệu Trị, từng đi công cán nhiều nước Viễn Đông. Ông dịch Nhị thập tứ hiếu với ý thức “Muốn lưu gia phạm nên truyền quốc âm”. Tác phẩm này có ảnh hưởng lớn qua con đường văn chương lẫn truyền khẩu, theo đó 24 hiếu tử trở thành mẫu mực trong cuộc sống thế kỷ XIX. Ở đó, chúng ta biết đến Ngu Thuấn nhẫn nhục, Văn Đế hầu mẹ ốm ba năm không ngủ, Mẫn Tử Khiên cam phận đầy thánh thiện, Diễm Tử vào rừng tìm sữa hươu, Mạnh Tông mặc giá rét vào núi tìm măng, Ngô Mãnh ngủ trần cho muỗi đốt, Đinh Lan tạc tượng cha mẹ để hầu hạ cơm nước suốt mấy chục năm liền, Quách Cự giết con để mong trọn chữ hiếu với mẹ… Nói chung, các tấm gương “anh hùng đạo lý” trong Nhị thập tứ hiếu không hiếm trường hợp cao cả và cũng không ít trường hợp thái quá.
Không phải bây giờ chúng ta mới xét lại mà đương thời với Lý Văn Phức, Trương Hảo Hiệp trên đường đi sứ Trung Quốc qua nơi Quách Cự chôn con đã đề thơ chê trách:
Cận thính từ đường ái thử nhi,
Quách quân hà sự nhẫn mai thì?
Nhược giao (giáo) lão mẫu văn tiêu tức,
Khấp tử tuyền đường vị khả tri!
Cao Tự Thanh dịch:
Nghe nói bà cưng đứa cháu này,
Tại sao chàng Cự lại chôn đi?
Mẹ già như rủi mà nghe được,
Khóc chết tuyền đài cũng có khi.
(Đề Quách Cự mai nhi xứ/ trong Mộng Mai đình thi thảo)
Rõ ràng hiếu của Nho gia mà được hiểu và làm như Quách Cự là bất nhân. Hiếu là nền tảng giáo hóa để đạt đến nhân, chứ không câu chấp điều vụn vặt thái quá như vậy. Trần Trọng Kim trong sách Nho giáo nhận xét: “Cũng vì nhiều người không hiểu cái thâm ý chữ hiếu là cái mối đầu sự tác dụng của đạo nhân cho nên cứ câu nệ vào cái hình thức bề ngoài bày ra những phiền toái, làm mất cả cái tinh thần giản dị, thành thực (Bản in của NXB Tân Việt, trang 145). Lời nhận xét về đám hủ nho ngày xưa đáng coi là lời phê bình những “hủ nho ngày nay” sính việc tang lễ rình rang, giỗ chạp linh đình để biểu diễn cái lòng hiếu thảo rỗng tuếch. Người hiếu thảo khác với kẻ làm ra vẻ hiếu thảo.
4. Đọc trong truyện thơ Dương Từ - Hà Mậu của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, sáng tác hồi cuối thế kỷ XIX, chúng ta thấy tác giả đứng trên lập trường Nho giáo chỉ trích khá gay gắt đạo Phật là đạo xúi bẩy người ta bỏ vợ con, gia đình, “trốn tránh xâu thuế vào chùa tu” và đặc biệt là tội bất hiếu của Tăng sĩ Phật giáo:
Tóc, râu là dạng nam nhi,
Của cha mẹ đúc can gì cạo đi?
Tổ tiên chút đã đền chi,
Vùa hương, bát nước mấy khi phụng thờ.
Và:
Làm người sao chẳng theo loài,
Thảo cha, ngay chúa đoái hoài chi đâu?
Đành lòng cạo hết tóc râu,
Đã âu bất hiếu, lại âu phản thần.
Những lý lẽ mà Nguyễn Đình Chiểu nêu ra trên đây thực ra cũng… phổ biến và trong lịch sử, ở chừng mực nào đó rất gần với lý lẽ của sáu phái ngoại đạo chê trách Phật Thích Ca khi ông bỏ cung điện đi tu. Họ chê rằng Thích Ca là người phước bạc (mẹ sinh ra ông 7 ngày đã chết), bạc nghĩa (bỏ vợ con), bất hiếu (bỏ vua cha đã già)… Điều này ghi rõ trong kinh Đại Phương Tiện Báo Ân. Tất cả những lý lẽ này hoàn toàn không thể tất đối với đạo Phật, có thể nói chưa lĩnh hội hết tinh thần hiếu đạo cao cả và rộng lớn của Phật giáo. Giáo lý nhà Phật coi công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ là một trong Tứ trọng ân mà mỗi người phải lo báo đáp: ân cha mẹ; ân đồng bào, đồng loại; ân quốc vương; ân Tam bảo. Ở Nam Bộ từ giữa thế kỷ XIX, Tứ ân đã được coi là giáo pháp chính yếu của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và kế đó là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, coi trọng cả Tứ ân và đặc biệt nhấn mạnh đến giá trị Hiếu và Nghĩa. Điều này đã chỉ ra ảnh hưởng, tác động to lớn của quan điểm Tứ ân Phật giáo với cộng đồng cư dân Nam Bộ.
Đối với đạo Phật, đạo Hiếu được đề cập trong nhiều kinh điển: kinh Báo Ân, kinh Hiếu Tử, kinh Vu Lan Bồn, kinh Tâm Địa Quán, kinh Bổn Sự…

Đạo Nho chủ vào tính chất nội tại hơn là tính siêu việt; do đó, đạo hiếu Nho gia không chịu có một bước nhảy siêu hình mà quay về với người sinh tạo ra họ và hiếu được xã hội hóa là trung với vua. Hiếu đạo của Phật giáo bao gồm cả hiếu đạo thế gian và hiếu đạo xuất thế gian (tức vừa có những nội dung thực tiễn lại vừa có những nội dung siêu việt). Trong kinh Hiếu Tử, Đức Phật đã nói với các Sa môn rằng: “Con nuôi cha mẹ bằng cách đem những thức cam lộ trăm mùi ngon ngọt dâng lên cha mẹ làm cho cha mẹ thỏa miệng, đem các thứ nhạc hay như nhạc ở cõi trời làm cho cha mẹ vui tai, may các quần áo đẹp cho cha mẹ rực rỡ và suốt đời cõng cha mẹ đi dạo chơi khắp bốn bể để trả ơn sinh dưỡng thì vẫn chưa đủ hiếu. Người con thực hiếu, thấy cha mẹ mê tối, làm những việc ác phải can ngăn, kiên trì làm cho cha mẹ giác ngộ Chánh pháp”. Khác Nho giáo, hiếu đạo Phật giáo gồm cả lý lẫn sự. Sự là việc phụng dưỡng, kính ái cha mẹ; lý là làm sao cho cha mẹ thoát khỏi luân hồi, nghiệp báo, đạt được cứu cánh giải thoát của tôn giáo này. Nói cách khác, sống thiện là hiếu hạnh, là phát tâm báo ân; và ác là làm ác, không tu dưỡng là bất hiếu. Theo đó, đây cũng là ý nghĩa của lời nói của Phật Di Lặc: “Trong nhà có hai Đức Phật mà con người không hiểu: cha mẹ hiện tại là Phật Thích Ca và Phật Di Lặc vậy”.
5. Những gì trình bày trên đây cho chúng ta thấy rằng hiếu thảo là một đạo lý phổ quát trong các nền văn hóa và không một tôn giáo nào không lưu tâm thích đáng đến nó. Dù có thể có những cách nhìn và những quy phạm khác nhau, tất cả các giáo lý đều coi hiếu là một giá trị quan trọng của cuộc sống làm người, nền tảng của đạo lý và hạnh phúc. Do vậy, dù thời cuộc đổi dời đến đâu, hiếu đạo vẫn là điều luôn được coi trọng và đặc biệt là cơ sở chế định các mối quan hệ gia đình. Thay lời kết, tôi xin kể một câu chuyện:
“Một họa sĩ suốt đời ước mơ vẽ một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi vị giáo sĩ để biết điều gì đẹp nhất. Vị giáo sĩ trả lời: “Tôi nghĩ điều đẹp nhất trần gian là niềm tin vì niềm tin nâng cao giá trị con người”.
“Họa sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái và được trả lời: “Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, mang đến nụ cười cho kẻ đang khóc than, làm cho điều bé nhỏ trở nên cao trọng. Cuộc sống sẽ nhàm chán biết bao khi không có tình yêu”.
“Cuối cùng, họa sĩ gặp một người lính vừa trở về từ chiến trường. Được hỏi, người lính trả lời: “Hòa bình là cái đẹp nhất trần gian, ở đâu có hòa bình là ở đó có cái đẹp”. Và họa sĩ tự hỏi mình: “Làm sao mình có thể vẽ cùng một lúc cả niềm tin, hòa bình và tình yêu…?”.
“Khi trở về nhà, ông nhận ra niềm tin trong ánh mắt các con, tình yêu trong nụ hôn của người vợ. Chính những điều đó làm tâm hồn ông tràn ngập hạnh phúc và sự bình an. Họa sĩ đã biết như thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Ông cặm cụi vẽ và khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là “Gia đình”.
“Thật vậy, gia đình là nơi đầy ắp tiếng cười của trẻ thơ, tiếng hát của người mẹ và sức mạnh của người cha. Nơi đó chan hòa hơi ấm của những con tim biết yêu thương, là ánh sáng của những đôi mắt tràn đầy hạnh phúc, là sự ân cần, là lòng chung thủy.
“Gia đình là ngôi thánh đường đầu tiên học những điều hay lẽ phải, niềm tin và lý tưởng sống”.
Đó là nơi chúng ta tìm về để được an ủi, nâng đỡ.
Đó là nơi những món ăn đơn sơ cũng thành mỹ vị,
Đó là nơi tiền bạc không quý bằng tình yêu,
Đó là nơi ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm vui, hạnh phúc”.
Chúng ta có thể kể ra nhiều hơn nữa những điều tốt đẹp cho cuộc sống mà gia đình mang lại. Song trong thực tế, những mối dây liên hệ truyền thống đó có khuynh hướng lỏng lẻo dần và các nơi chốn ấy ngày càng bị xã hội hiện đại xô đẩy đến chỗ tan rã. Xã hội hiện đại với tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đã làm tiêu hao các hệ thống họ hàng mở rộng và đưa tới sự thay đổi trong bản chất bổn phận gia đình, người ta ngày càng ít dành thời gian cho bất cứ cái gì giống như gia đình và đã có nhiều dấu hiệu của sự căng thẳng và xung đột hơn trước đây… Gia đình hiện nay đang ngả qua xu hướng coi đó là một lĩnh vực trong đó người ta tìm được sự mãn nguyện cá nhân. Một khi gia đình thất bại trong việc cung cấp tình trạng tốt đẹp về mặt tình cảm và tâm lý cho các thành viên của nó thì tính hợp lý cho sự tồn tại của nó sẽ mất đi. Mâu thuẫn chính trong gia đình hiện đại là xung đột: một bên, là gia đình, với bất cứ kiểu nào, cũng yêu cầu hy sinh một số tự do và ngược lại, bên kia, xã hội hiện đại với sự cá nhân hóa, lại kỳ vọng mọi người là những vai trò tự lập hơn trong các quan hệ kinh tế, gia đình, giải trí, thân mật riêng tư. Nói chung, khuynh hướng thu hẹp gia đình lại đang bộc phát, song sức sống dồi dào của nhu cầu cộng đồng vẫn đang cưỡng lại. Do đó, niềm hy vọng của chúng ta là với năng lực sáng tạo không lường trước được, trong bước đường dấn vào quá trình ứng đối đau đớn, sẽ tìm ra được phương thức hợp quần mới, dung hòa được mối liên kết gia đình với tự do cá nhân.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2014(Xem: 13779)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
03/09/2014(Xem: 6469)
Theo lời Phật dạy, nhằm ngày Rằm tháng Bảy, Tôn giả Mục Kiền Liên lập bồn Vu Lan, thỉnh mời Chư Tăng đến chú nguyện. Nhờ đó bà Thanh Đề thân mẫu của ngài Mục Kiền Liên mới được thoát khỏi cảnh u đồ địa ngục, và các vong linh khác cũng nhờ phúc lành của Chư Tăng mà được siêu thoát. Noi gương hiếu đễ của Tôn giả Mục Kiền Liên hàng năm, cứ đến ngày Rằm tháng Bảy, Phật tử khắp nơi lại tưng bừng tổ chức ngày lễ Vu Lan với tín tâm cầu cha mẹ, ông bà, tổ tiên mình sẽ được thoát khỏi tội đồ. Thể theo tinh thần tri ân và báo ân của người con Phật để nhắc nhở mọi người trở về cội nguồn tổ tiên hiếu kính đối với những đấng sanh thành. Chùa Quán Thế Âm Thành Phố Odense Danmark long trọng tổ chức : Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu, vào ngày 30.08.2014 Dương
03/09/2014(Xem: 5741)
Năm nay Chùa Liễu Quán Copenhafen, vương quốc Denmark long trọng tổ chức Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu PL.2558 – DL.2014.Tuy thời gian có hơi trễ nhưng hòa chung niềm hân hoan của bao người con Phật nhân ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu, để bày tỏ lòng tri ân và báo ân sâu sắc nhất kính dâng lên hai đấng sinh thành, ngày 31/08/2014 (Dương lịch) quý thiện nam tín nữ Phật tử tại bổn xứ và vùng phụ cận đã về tham dự.
03/09/2014(Xem: 5239)
“Ba sẽ là cánh chim, đưa con đi thật xa. Mẹ sẽ là cành hoa, cho con cài lên ngực. Ba Mẹ là lá chắn, che chở suốt đời con…” Những câu hát mà các em thiếu nhi thường hát tặng cho Ba Mẹ nhân Mùa Vu Lan trở về, nhưng đối với QT, Mùa Vu Lan năm nay QT bỗng cảm thấy thiếu vắng một cái gì đó thật to lớn và có lẽ sẽ không có gì có thể thay thế và lấp được lỗ hổng lớn đó ở trong trái tim của mình. Những hàng cây hai bên đường của thành phố Melbourne dù hoa lá vẫn xanh tươi, thỉnh thoảng những cơn mưa kèm theo những cơn gió lúc nhẹ, lúc mạnh của mùa Đông như năm nào không có gì thay đổi nhưng cảnh vật trông có vẻ buồn và ảm đạm hơn nhất là những buổi chiều tối khi màn đêm buông xuống kèm theo cái lạnh giá rét, lòng mình bỗng thoáng buồn theo với cảnh vật bên ngoài như gợi lại cho mình những ký ức về Ba... Có ai trong chúng ta mà không một lần thời thơ ấu được nhõng nhẽo trong vòng tay Ba Mẹ, để đòi cái ni cái tê, để được ôm ấp vào lòng,… Mới năm nào QT còn viết thư cho Ba Mạ để cảm niệm công
31/08/2014(Xem: 5719)
Ngày nay, khi mà xã hội khoa học kỷ thuật ngày càng phát triển không ngừng. Thì nền NHÂN VĂN ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI hình như ngày càng đi xuống. Khi mà tiền tài, danh vọng như một con Ma, một án mây đen đang len lỏi vào tâm thức con người để rồi phủ mờ đi ánh trăng lý trí. Họ đã quên đi công ơn sanh thành dưỡng dục 3 năm nhũ bộ 9 tháng cưu mang, để bảo vệ hình hài viên ngọc vô giá của người mẹ, cha. Họ quên đi tất cả lu mờ lý trí cũng chỉ vì đồng tiền, và rồi không 1 chút do dự họ đã cầm dao giết đi người mẹ, người cha đã sinh mình ra trên cuộc đời này (hiện nay những thông tin này phổ biến trên báo pháp luật rất nhiều).
26/08/2014(Xem: 9752)
Sau khi tham dự và chứng minh Đại Lễ Vu Lan tại Koblenz do Ni Sư Thích Nữ Minh Hiếu Trụ Trì Tịnh Thất Bảo Thành tổ chức, Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển và Thượng Tọa Thích Hạnh Nguyện đã dùng tàu lửa để đi đến Ravensburg, một thành phố nhỏ thuộc miền Nam nước Đức; nơi có Tu Viện Viên Đức đã được thành lập từ năm 2007 đến nay.
24/08/2014(Xem: 6667)
Điều tôi cảm nhận đầu tiên về người là đôi bàn tay. Tôi không nhớ lúc đó mình bao nhiêu tuổi, nhưng hình như sự hiện hữu, cuộc sống của tôi gắn liền với đôi bàn tay đó. Đôi bàn tay của mẹ, một người mẹ mù. Tôi còn nhớ những lần ngồi tô vẽ màu ở bàn ăn, trong nhà bếp. Tôi nói, “Mẹ! Xong rồi. Hãy nhìn tranh của con nầy”.
23/08/2014(Xem: 6315)
Đến Louisiana, thành phố Gretna đã hơn 2 tuần, nay được huynh đệ mời đến Tiểu bang Oregon, thành phố Portland để trình bày giáo lý Đạo Hiếu đến với cộng đồng người Việt nhân mùa Vu Lan (tháng 7 al) theo truyền thống của Đạo Phật nói chung và có liên quan đến Đạo Nho cũng như qua tinh thần uống nước nhớ nguồn của nền văn hóa Việt đã được khởi động và hình thành một bản sắc đặc thù đã có tự ngàn xưa từ kho tàng ca dao của các bậc tiền hiền đã trải qua nhiều thời đại sáng tạo, chắt lọc, khơi nguồn đạo lý của dân tộc cho đến ngày hôm nay, và miên viễn cho cả những thế hệ mai sau.
22/08/2014(Xem: 10414)
Sau nhiều ngày họp hội, bàn thảo, phân công, BTC Pháp hội Thù Ân được tổ chức tại chùa Pháp Vân, số 16, đường Lê Thúc Hoạch, phường Phú Thọ, quận Tân Phú, Sài Gòn. Từ sáng sớm, lễ đàn được thiết trí trước sân chùa Pháp Vân, do ban kinh sư chùa Vạn Phước – chùa Pháp Vân thực hiện, các huynh trưởng cấp Dũng như anh Tư Đồ Minh, Nguyễn Công Minh, Nguyễn Châu, Bạch Hoa Mai trong Ban Đại Bái cung đối đàn tiền thỉnh lễ cẩn sớ.
22/08/2014(Xem: 14829)
Tạ ơn Mẹ cho còn dòng sữa ngọt Tình bao la như lượng của đất trời.. Dạy con sống cho đi hơn là nhận Biết thương người còn bất hạnh, đơn côi. Tạ ơn Cha đã cho con cuộc sống Lúc vỗ về, khi giáo huấn nghiêm minh Tình Cha đó, tựa sơn hà cao rộng Con trưởng thành trong đức độ, hy sinh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]