Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ba và Vu Lan

10/04/201317:38(Xem: 4894)
Ba và Vu Lan

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2008

Ba và Vu Lan

Thích Giác Tâm

Nguồn: Thích Giác Tâm

Bên cạnh chùa có một dòng sông, ngày xưa tôi còn nhỏ con sông rất nhỏ, có thể gọi là con suối. Bắt qua suối là chiếc cầu bằng tre, chông chênh lắt lẻo. Thỉnh thoảng tôi đi qua phía bên kia suối trên chiếc cầu tre gập ghềnh, đung đưa như chiếc võng để qua bên kia buôn làng đồng bào Thượng mua bí ngô,bắp ,măng le, về ăn. Có những buổi chiều ngồi bên bờ suối nhìn nước nhìn mây, nhìn những đàn bò lội qua suối về bên kia buôn làng, nhìn những em bé người Thượng chăn bò, tay cầm ống thục với bì cò ke, bắn nổ lách tách trên đường về buôn. Mười năm sau đó con suối đã biến thành sông, vì cuối nguồn nước dòng chảy đã ngăn lại. Thỉnh thoảng , những buổi chiều tôi lại ra sông, chiếc cầu tre lắt lẻo năm xưa đã không còn nữa, qua lại đôi bờ là những chiếc ghe nhỏ, do những người Thượng đưa đón lấy tiền. Vẫn như năm xưa, dòng sông vẫn trôi chảy ngày đêm, sông chảy, cuộc đời trôi chảy, người già ra về cõi khác, người trẻ xuất hiện lớn lên, già trẻ nhìn nhau ngỡ ngàng han hỏi. Dòng chảy là một nhưng tên đã khác, đôi bờ đã khác, Núi Tiên Sơn sau chùa cũng đổi khác, màu xanh không còn, trơ trụi. Mùa nắng khô ban đêm nhìn về núi, núi cháy đỏ rực loằng ngoằng như những con trăn khổng lồ trườn bò xuống núi. Mười năm sau nữa dòng sông rộng thêm ra vì ngành thuỷ lợi ngăn dòng để lấy nước tưới cà phê, sông bây giờ mùa mưa đã trở thành một cái hồ mênh mông, khoảnh cách đôi bờ mênh mang xa lạ. Mười năm, mười năm, rồi mười năm… bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, dâu bể đổi thay. Đêm nay bỗng dưng tôi nhớ đến đến những những mười năm về trước, liên quan đến một bức thư mà tôi đã viết để hàn gắn đỗ vỡ trong tình thân.
Mười sáu năm trước, tôi có người bà con, cha mẹ thì còn ở Việt Nam, nhưng những người con thì định cư ở Mỹ, không hiểu duyên cớ gì một trong những người con đem lòng giận cha, gọi điện thoại về nói rằng sẽ không về Việt Nam nữa, sẽ không nhìn mặt cha nữa. Ông buồn phiền khổ đau, nhờ tôi trung gian hoá giải. Tôi đã viết thư hoá giải với tất cả nỗi niềm, gởi qua đường Bưu Điện, ngày đó không có email. Một tháng sau tôi nhận được thư hồi âm của người cháu, nói rằng :" Chú ơi ! cháu muốn bay về Việt Nam quỳ dưới chân ba để sám hối, để tạ lỗi với ba, muốn về Biển Hồ, Pleiku thăm chú, cảm ơn chú, nhờ chú mà cháu đã không mất ba, và ba cháu đã không mất cháu. Nhân đây chú cũng xin có vài lời với gia đình cháu K. Chú đưa bức thư nầy lên blog của chú để kỷ niệm một giai đoạn. Năm mà chú viết bức thư này, năm đó chú đau bệnh nhiều lắm, chùa chiền cơ cực, đi tìm tờ giấy, cây viết để viết thư cũng rất khó, viết nửa chừng thì hết mực, phải đi mượn cây viết hàng xóm viết tiếp. Chuyện riêng của một gia đình, tuy vậy cũng là chuyện chung cho tất cả. Trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phật có dạy " Một là tất cả, tất cả là một " cho nên chuyện của tôi, có khi cũng là chuyện của anh, của chị của em. Mùa Vu Lan phần đông viết về mẹ, bức thư này đăng lên là để kỷ niệm tình cha. Bác đã lớn tuổi, vẫn còn khoẻ bên cạnh các con các cháu, đó là diễm phúc lớn cho những người con người cháu, hãy trân trọng giữ gìn báu vật ở bên ta, trong tay ta, đừng để vuột khỏi tầm tay rồi ân hận thở than. Viết miên man không đầu không đuôi trong mùa Vu Lan Báo Hiếu Phật Lịch 2552, để thân tặng những người thân của tôi. Bông hồng tôi đã cài lên áo các em, các cháu rồi đó, hãy sung sướng đi.


Giác Tâm


-------------------------------------------------------------
Sài Gòn ngày 16.09.1992
Ngọc Kiều !
Trước mặt là tờ giấy trắng. Chú đang nhíu mày suy nghĩ một chút để viết cho K. Chưa biết viết gì thì bên nhà hàng xóm lại vang vang lên ca khúc : "Mười năm không gặp tưởng tình đã cũ, mây bay bao năm ngỡ mình đã quên …" Hai chữ tưởng và ngỡ đã làm lay động lòng người, đã nói lên được cái tình Đông phương-Việt Nam. Thì ra sự biệt ly chia cách cũng có cái mầu nhiệm dễ thương của nó, chứ không hẳn chỉ là đớn đau sầu khổ không. Chú nhận ra điều đó khi gặp lại Hằng và cháu KaThy sau mười mấy năm biền biệt quê hương. Và cũng hiểu thêm một khía cạnh khác nữa của ngôn ngữ. Vì sao các Thiền Sư rất ít nói, mà khi nói thì như sấm sét rung chuyển, thức tỉnh lòng người. Vì các ngài hằng sống với chân tâm.
Gặp nhau hằng ngày, nói chuyện với nhau thường xuyên, chúng ta thường coi thường nhau, thiếu cẩn trọng , thiếu sự chú ý trong khi đối thoại, và do đó nghe mà dường như không hiểu người đối diện muốn nói gì. Từ suy nghĩ đó chú thấy rằng cơ hội được nói chuyện và lắng nghe mẹ con Hằng không có nhiều lắm cho nên khi nghe Hằng và Ka Thy nói, chú nghe với tất cả tâm hồn và phát hiện ra rằng ma lực của ngôn ngữ thật kỳ diệu, nếu chúng ta nói chuyện với nhau bằng con tim. Lúc chia tay ở phi trường Hằng có nói với chú : "Chào chú cháu đi, chú ở lại nhớ giữ gìn sức khoẻ". Chừng đó câu chữ thôi, mà cảm động đến nỗi chú không nói lại được gì để tiễn đưa Hằng. Không biết Hằng có hiểu cho chú không?
Máu huyết ách tắt, hay vô thức lo lắng vu vơ thế nào đó mà hồi hôm chú nằm mơ thấy Kiều về mà chú không đến đón được. Còn nơi chú ở không phải là Biển Hồ Pleiku, cũng không phải Sài Gòn . Mà ở trên một đồi cao xa lạ nào đó, tĩnh lặng và nhiều tiếng chim. Kiều có đến tìm thăm chú nhưng chú lại đi vắng , người thân chú nói lại với Kiều rằng : "Chú đi đâu đó mười lăm phút rồi sẽ về liền". Kiều ngồi chơi đợi chú, nhưng rồi Kiều không đủ kiên nhẫn đợi đã ra về. Giấc mơ thì chỉ chừng đó thôi nhưng cũng làm cho lòng chú bâng khuâng, buồn . Buồn vì chú không đến đón Kiều được , và Kiều thì bị cuộc sống hối hả của Tây Phương níu kéo, không đủ kiên nhẫn đợi chờ thăm chú. Mà thôi đó chỉ là mộng mị chớ chú cháu mình không đến nỗi nào như vậy đâu phải vậy không Kiều?
Chú cùng với gia đình có xem lại cuộn băng video đón và đưa tiễn Hằng và Ka Thy nhìn từng gương mặt của người thân hiện lên qua màn ảnh chú thấy có nụ cười và nước mắt . Quá khứ và tương lai của từng người mờ mờ rồi rõ nét trong tâm chú . Nhất là bác .
Hôm chở Ka Thy đi một vòng Sài Gòn để mua đồ chơi bằng sành sứ. Nhìn mấy thầy trò Đường Tăng, tháp chùa, gia đình thỏ mèo … Ka Thy có nói với chú : "Không biết vì sao mà cháu thích người cá quá !". Bây giờ đây bắt chước lối nói của Ka Thy, chú cũng muốn nói rằng : "Không biết vì sao mà chú rất thương bác". Có lẽ một phần bác là ba của H. K. G. T. D. phần nữa là chú rất hiểu bác : Một con người có sao đào hoa chiếu mạng, tuổi trẻ yêu thương nhiều nên gia đình không hợp nhất. Con cái thì thương mẹ nhiều hơn ba, thành thử trong nụ cười của bác vẫn thấy được chất cô đơn và muộn phiền. Chú vừa biết được bác năm nay 68 tuổi, hai năm nữa là 70 , sẽ xếp vào hạng người xưa nay hiếm. Tuổi tác đó thần kinh tim mạch không còn vững vàng tốt nữa, một con người khi về già tính tình thường thay đổi giống như con nít. Thỉnh thoảng chú cũng thấy ở nơi bác điều đó- sự lẩm cẩm của người già-
Nhiều lần nhìn bác, thấy gương mặt vuông chữ điền lông mày rậm sắc, mắt hơi xếch, chú có suy nghĩ : "Bác chắc dữ lắm" . Nhưng rồi nhìn lại sự thành đạt của những người con gái. Tục ngữ Việt Nam có câu : "Con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ" thì chú suy nghĩ ngược lại . Nếu bác dữ và làm nhiều việc không lành thì làm sao có được những người con gái như vậy . Những người em người cháu ở phương xa của tôi ơi, có lần nào nghĩ đến điều ấy không ?
Sáng nay ngồi uống nước trà với bác với cô, chú có nói chuyện với hai người, tháng mười hai này Kiều và Trang về thăm, cô bác hãy tạo điều kiện để cho hai nhỏ được đi đây đi đó, nhất là Huế thế nào cũng phải tìm về thăm vì còn bà ngoại ngoài đó . Thăm bà một lần trước khi bà nhắm mắt , để sau này khỏi ân hận thở than . Thăm nhà thờ họ thắp cho các vị tiên hiền một nén nhang , và cũng để cho các vị sung sướng mỉm cười , tự hào rằng : "Dòng họ Đặng đã có những đứa con đứa cháu làm vẻ vang cho tộc họ như vậy" . Thăm chùa Linh Mụ cổ kính trầm mặc bên dòng Hương giang, đền đài lăng tẩm của dòng họ Nguyễn một thời vang bóng. Về cồn hến ăn một chén chè bắp thơm phức ngọt lừ . lại chợ Đông Ba ăn một tô bún bò Huế đặc biệt cay xè chảy nước mắt . Nhìn sông An Cựu nắng đục mưa trong …
Những người em những người cháu gốc Huế của tôi ơi ! Huế chi mà không biết cầu Tràng Tiền , sông Hương ra răng , núi Ngự Bình ở chỗ mô lẽ nào trong trái tim của các em các cháu không còn chỗ dành cho Huế , mà nếu nhớ sao không chịu tìm về thăm.
Huế vẫn còn thơ mộng như ngày nào , có về Huế vào dịp phượng nở đi trên con đường Lê Lợi ven sông Hương , nhìn những cô nữ sinh nón lá che nghiêng với chiếc áo dài trắng từ trường Đồng Khánh ùa ra, trên con đường ngập đầy hoa phượng đỏ ta mới thấy hết cái đẹp của Huế của quê hương.
Cuộc đời dẫu biến thiên thăng trầm mấy đi nữa, nhưng cái đẹp thì muôn đời vẫn hiện hữu, cho nên chú rất mong các em các cháu nơi phương trời lữ thứ đừng bao giờ lãng quên cội nguồn và cái đẹp quê hương. Vì mỗi người chỉ có một quê hương mà thôi.
Chú rất ít làm thơ , nhưng thấy bác có tâm sự có nỗi niềm, vì núm ruột mình vẫn không hiểu mình , vẫn hờn oán trách cha. Chú kết thúc bức thư này bằng một bài thơ lục bát :
Nghĩ về cốt nhục tình thâm
Thì thôi chuyện cũ để tâm làm gì
Tuổi ba giờ sớm ra đi
Thương ba không hết, nói chi nặng lời
Từ em … Ba chẳng nói cười
Âm thầm lặng lẽ, thở dài đêm đêm
Công cha núi Thái- chưa đền
Mong em ngưỡng vọng ân trên nguyện cầu
Để rồi trong những đêm thâu
Nghĩ về em ba vợi sầu - sống thêm.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/07/2014(Xem: 9191)
"Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới tỏa khắp rạch sông" Được làm người công đức của cha ông Nên danh phận cảm nhờ ơn xã hội Chúng ta được thân làm người, là nhờ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhiều nhân duyên hội tụ. Chúng ta được khôn lớn nên người là nhờ ở sự trưởng dưỡng, giáo dục của Cha, Mẹ, Thầy, Cô và Xã Hội. Công ơn to lớn ấy, trong kinh Phật đã dạy có Bốn Đại trọng ân: 1/ Ơn Quốc gia, thủy thổ, 2/ ơn Cha, Mẹ, 3/ Ơn Tam bảo, 4/ Ơn Đàn na tín thí (xã hội), trong đó công ơn của cha mẹ là to lớn nhất, sánh bằng non biển, không thể bút mực nào tả xiết. Chỉ có tri niệm và thực hành mới hy vọng có một chút đáp đền. Đức Phật đã dạy rằng: công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn, với sự hy sinh cao đẹp, “bên ước mẹ nằm, bên ráo phần con”, thật là “ Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ, gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha”, Thương và lo cho con nên “miễn sao có lợi thì làm, chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm…”.
29/07/2014(Xem: 24993)
Hồng đỏ cài lên đẹp tuyệt vời Phải nên trân trọng nhé người ơi! Những ai còn mẹ còn hồng đỏ Màu đỏ thắm tươi vẻ rạng ngời
24/07/2014(Xem: 4638)
Tối nay ngồi vẽ Mẹ. Một người Mẹ của đồng quê đất Việt. Da mặt Mẹ đã xạm đen vì dãi dầu. Đôi mắt Mẹ đã trĩu xuống vì suy nghĩ, vì chịu đựng, vì lo lắng cho các con. Đôi môi Mẹ đã khô khan nứt nẻ, vì tranh thủ, vì buôn bán, vì cãi cọ, vì van xin, vì cầu nguyện.
24/07/2014(Xem: 4459)
Vu Lan là lễ truyền thống lâu đời có từ thời Đức Phật còn tại thế hơn 2,500 năm trước; đồng thời cũng là lễ tiết quan trọng phổ thông của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa mà tổ tiên chúng ta đã giữ gìn qua nhiều thế hệ. Lễ tiết Vu Lan hay Vu Lan thắng hội gắn liền với lễ giải Hạ - Tự tứ của Tăng đoàn Phật Giáo. Lễ Tự tứ có nghĩa là sau những tháng ngày tịnh tu Giới - Định - Tuệ, ba nghiệp của hành giả sâu lắng thanh tịnh; hai vị Tỳ kheo đối thú nhau chân thành bày tỏ khởi đi từ đạo tình cao quý nhẹ nhàng trong sáu tiếng: thấy tội, nghe tội, nghi tội, những mong đợi vị thầy đối diện chỉ bày cho ta thành tâm sám hối trước hội chúng và Tam Bảo, nguyện cải đổi không tái phạm, nếu xét thấy mình có tội. Thật là thành khẩn, cao đẹp trong hòa hài, từ bi, nhẫn thuận, bình đẳng. Nhẹ nhàng nhưng mang chất liệu tuệ giác tự thân và san sẻ với giác tha của người đối diện kết nên vòng nhân duyên thù thắng hầu tiến đến giác hạnh viên mãn.
24/07/2014(Xem: 4477)
Mỗi mùa Vu Lan đến Biết bao dòng lệ rơi Cho tình vô bờ bến Bày tỏ không nên lời Nghẹn ngào trong nước mắt Tưởng nhớ đến mẹ cha Ân tình cao chất ngất Suốt đời đã bôn ba
19/07/2014(Xem: 5077)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phật giáo chủ trương nhân quả theo nhau như hình với bóng, nghĩa là người gây nhân lành ắt sẽ hưởng quả tốt, ngược lại kẻ tham lam, vị kỷ, độc ác... chỉ biết lợi mình, không kể đến hậu quả làm phiền lụy khổ đau cho tha nhân, rộng ra là cả sinh linh vạn loại, đương nhiên sẽ gặp những phiền toái, chịu đựng những trách móc, oán hận của những nạn nhân, hay khi xả bỏ cuộc sống sẽ lãnh sự trừng phạt trong 3 ác đạo mà thế nhân hay tín ngưỡng nào cũng nghĩ bàn để khuyến miễn người đời phải lo tu thân hành thiện, làm đẹp nhân sinh. Mùa Vu Lan báo hiếu phát xuất từ đức Mục Kiền Liên kiếm tìm, thăm viếng rồi giải thoát mẹ ngài khỏi cảnh giới ngạ quỷ, có từ thời đức Phật còn tại thế; văn hóa thế nhân có từ khi loài người hướng về nẻo thiện. Gần chúng ta là văn hóa Á Đông, lấy nhân luân làm căn bản: Hiếu, đễ, tru
18/07/2014(Xem: 5009)
Nhờ năng lực của Tăng đoàn mà mẫu thân của ngài Mục Kiền Liên được thoát khỏi cảnh bi thống nơi chốn địa ngục. Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp là năng lực vô biên hóa giải được khổ đau từ cõi vô hình cho đến thế giới con người. Trọng tâm của Giáo hội chúng ta đặt ở sự hiệp lực này, trong ấy những Phật sự hằng năm của Giáo hội, tất cả tăng ni và thiện tín cùng nhau chung lo. Bốn phật sự thường xuyên của Giáo hội mà mỗi thành viên đều chung sức chung lòng đó là: Phật đản, An Cư, Khóa Tu Học Bắc Mỹ và Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ.
15/05/2014(Xem: 7156)
Hôm nay ngày giỗ của Ba tôi, tự dưng lòng tôi thèm viết một chuyện gì đó về Ba tôi…như nhà văn Võ Hồng thường khuyên mọi người nên viết lại những kỷ niệm sinh hoạt của cha, của mẹ mình, những kỷ niệm mà mình nhớ hơn hết, đáng nhớ hơn hết…để nhân ngày k?giỗ của cha mẹ, tập trung về, cùng đọc, cùng nghe, cùng xúc động, hồi tưởng công ơn. Con cháu sẽ có dịp sống lại không khí đại gia đình, con nhớ thương cha mẹ, cháu gần gủi, quý trọng ông bà!
16/10/2013(Xem: 19440)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
16/10/2013(Xem: 15435)
Kính lạy vong linh cha, Khác biệt với muôn ngàn trường hợp khi cầm viết đặt lên giấy. Con ghi lại vài nét – chỉ vài nét thôi về đời sống của cha – một người cha có lắm điều độc đáo, không những chỉ trong hàng con cháu mà bất cứ ai cũng công nhận là hãn hữu và cần rút tỉa những điểm son để soi sáng vào nếp sống của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]