Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thi Sĩ Bùi Giáng, và tình cảm với các Sư Cô

10/04/201317:37(Xem: 5497)
Thi Sĩ Bùi Giáng, và tình cảm với các Sư Cô

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2008

Thi Sĩ Bùi Giáng, và tình cảm với các Sư Cô

Thích Giác Tâm

Nguồn: Thích Giác Tâm

Một con người xuất khẩu thành thơ, đi mua chịu rượu và đồ nhậu, ghi vào sổ nợ cũng ghi bằng thơ, viết văn và làm thơ với một tốc độ kinh hồn, ông để lại cho nền văn học Việt Nam một số lượng tác phẩm đồ sộ, giá trị. Vậy mà số phận thật hẩm hiu, ông có vợ, có người yêu nhưng không tìm thấy hạnh phúc, ông chia tay với vợ, với người yêu và giong ruỗi đi tìm, đi tìm giai nhân khắp bốn phương trời, tìm trong mộng, trong thi ca và trong cả những ngôi chùa mà ông có duyên đến và được đón nhận, không mặn nồng nhưng vẫn không lạt lẽo. Bởi vì ông có thời dạy văn chương ở Đại Học Vạn Hạnh của Phật giáo ở đường Trương Minh Giảng Sài Gòn, với lại ông có điên điên nhưng lành không phá phách, nên những ngôi chùa ông đến đều cho ông ăn cơm, thỉnh thoảng có cho tiền nữa. Ngôi chùa ông thường đến là ngôi chùa Dược Sư ở đường Lê Quang Định Gò Vấp, Thành Phố Hồ Chí Minh, nơi đó có phòng phát hành kinh sách Phật Giáo, có Sư Cô Như Hạnh phụ trách. Tôi mê sách nên mỗi khi đi Sài Gòn là luôn ghé lại chùa Dược Sư, có quen Sư Cô Như Hạnh, tôi thường ghé phòng phát hành kinh sách và Thi Sĩ Bùi Giáng cũng hay ghé lại, bởi vậy tôi có gặp ông. Hôm đó ông tới ( xin lỗi tôi không còn nhớ rõ năm ) và cũng đúng lúc nhà chùa thọ trai, nên Sư Cô Như Hạnh vô bên trong nhà trù bưng ra đĩa cơm mời ông, ăn xong còn dúi tiền vào tay ông nữa. Trên bàn có viết và giấy, ông tự tay lấy viết và hý hoáy viết. Tít tắt ông bỏ viết xuống và nhìn Sư Cô Như Hạnh cười móm mém, như thầm cảm ơn và ra đi.
Ông đi rồi Sư Cô Như Hạnh, đưa tờ giấy có chữ viết của Thi Sĩ Bùi Giáng với nét bút sắt thật đẹp cho tôi, ông viết không đẹp như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhưng mà vẫn đẹp, bay bướm nữa. Ông viết bốn câu lục bát:
Đi tu thứ nhất ở chùa,
Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang -
Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân.
Hai chữ tần thân ông viết bằng chữ Việt, ông mở ngoặc viết chữ Hán rồi đóng ngoặc lại. Tôi không hiểu hai chữ tần thân, sau này tra Tự Điển Hán Việt có nghĩa như sau: Tần: luôn luôn - Thân: rên rỉ.
Đọc bốn câu thơ lục bát của ông, mới thấy được cái tài hoa, cái xuất khẩu thành thơ của ông, cái uyên áo trong tứ thơ của ông. Tôi có một người bạn ở Hoa Kỳ, cũng là một thi sĩ am hiểu Phật học, tôi gởi tặng anh hai câu " Đi tu thứ nhất ở chùa, thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang " Anh hiểu theo cách hiểu của anh, giảng lại cho tôi nghe rất dài dòng văn tự. Anh giảng câu đầu là ông nói về tục đế, câu thứ hai nói về chân đế, trong tục có chân và trong chân có tục, tương nhiếp lẫn nhau, vân vân và vân vân. Tôi chỉ nghe không ý kiến bởi vì chỉ có Thi Sĩ Bùi Bàng Giúi mới có thể giảng giải thâm ý của ông.
Tôi mơ màng nghĩ ngợi hai câu sau:
Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân.
Chắc hẳn rằng khi chia tay với vợ, và sau này cả người yêu nữa, ông có đau khổ, có trách họ, rằng họ đã không hiểu ông, không nuôi dưỡng hồn thơ ông, để ông cô đơn rồi đến nỗi phải chia tay. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn ông, ông vẫn còn yêu họ, thương họ, ông muốn có không khí ấm cúng của một gia đình, có đĩa cơm nóng hổi, đậm đà hương vị quê hương, có tô canh rau tần, đĩa mướp xào, chén tương, chén cà, đĩa rau luộc.…Ông đọc nhiều chắc ông có ao ước như Đại văn hào Nga Dostoiefski " Tôi xin đổi tất cả văn nghiệp của tôi , để có được một người vợ, biết nấu cho ăn ngon, và biết đứng ở cửa đợi chờ tôi về, trong suốt một ngày tôi làm việc mệt ".
Vẫn còn yêu thương người nữ,vẫn nhớ đến người mang nặng đẻ đau mình, và công đức sinh thành hơn cả nước trong nguồn chảy ra nữa. Ông nhớ đến người mẹ mẫu mực nhưng lận đận một đời đã khuất, nên khi gặp Ni Sư Trí Hải, có tên đời là Công tằng tôn nữ Phùng Khánh, đẹp người, đẹp hạnh tu, trí tuệ bậc nhất trong giới tu nữ ở đất Sài thành, ông đem lòng thương kính cứ luôn gọi là mẫu thân Phùng Khánh, sau khi ông mất Ni Sư Trí Hải có giảng cho Tăng Ni Phật tử về thâm nghĩa trong thơ ca của Bùi Giáng trong nhiều buổi giảng. Thương, quý, Ni Sư Trí Hải ông thương lây qua các Ni Cô khác, nhất là các Ni Cô ở chùa Dược Sư, nơi mà ông thường lui tới nghỉ chân, được ăn cơm , được lì xì tiền tiêu vặt. Cảm nghĩa, cảm tình ông đã coi chùa Dược Sư là thơ mộng nhất, các Ni Cô là người hiền thục nhất, đẹp nhất trong giới nữ lưu. Ông đã nhớ đến họ, tâm tưởng đến họ và có lúc ông đã buồn, qua họ ông nhớ đến mẹ ông, vợ ông ngày cũ, nhớ đến người yêu dang dở chia tay. Nhớ đến thân phận của một kẻ lãng tử như mình, tứ cố vô thân, không một mái ấm gia đình. May thay vẫn còn lòng từ bi của Phật, cho ăn cho uống, không đuổi xô, hất hủi. Chính điều đó đã khiến cho ông buồn tủi, và cái buồn của ông " Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân "
Sống ông dạy học trường chùa, ăn cơm chùa, và khi chết ông được chùa Vĩnh Nghiêm lo tang lễ, có Sư Tăng tụng niệm nguyện cầu. Âu đó cũng là duyên phước cuối kiếp làm người của ông. Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, bỗng nhớ về ông trong một đêm mưa gió bời bời, viết về ông, ghi lại bốn câu thơ ân nghĩa của ông để giữ lại tinh hoa của ông để rơi rớt lại trên dặm đường lãng du, phiêu bạt,mà ông tự nhận đứng hàng thứ hai sau các Sư Cô xuất gia ở Chùa:
Đi tu thứ nhất ở chùa,
Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang.

Chùa Bửu Minh, Gia Lai,
Mùa Vu Lan Phật Lịch 2552-DL.2008.
Thích Giác Tâm





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4747)
Tôi chưa từng nắm chặt đôi bàn tay của mẹ, chưa một lần ôm lấy mẹ dù vui hay buồn! Ba tôi mất từ năm tôi lên năm tuổi, mẹ tôi ở vậy nuôi hai chị em tôi khôn lớn. Lần đầu tiên tôi bước vào học lớp một, đứa bạn ngồi cạnh hỏi gia đình tôi làm nghề gì? tôi thật xấu hổ …chỉ dám nói mẹ mình làm nghề kinh doanh. Những ý nghĩ nói dối có lẽ bắt đầu hình thành từ khi ấy. Tôi ganh tỵ với lũ bạn vì ba mẹ chúng đều làm những nghề nghiệp đáng được xã hội tôn trọng, còn gia đình tôi, mẹ làm thợ xây, phu hồ, công việc quần áo dính đầy vôi vữa…
10/04/2013(Xem: 4344)
Tháng 07-2005 Ngày trở về tôi lặng yên không nói Mắt buồn buồn, nhìn, ngó thật xa xôi Ngó trước sau, ngó quanh quất một hồi
10/04/2013(Xem: 3450)
Tháng 10 - 2006 Cha ra đi, cõi vô thường tan biến Mái tranh nghèo, như vắng bóng Cha ơi Vẫn còn đây, bức mành thưa cửa sổ Gió phất phơ, reo kẽ lá không lời Cha ra đi, khung trời còn nhung nhớ
10/04/2013(Xem: 3496)
Mẹ ơi mẹ, tiếng mẹ hiền còn đâu nữa Bóng mẫu từ, hương thờ nhả khói mờ sương Mẹ đi đâu trên khúc rẽ vô thường Con tìm mẹ giữa ngàn dâu xanh biếc Con tìm mẹ bên dòng sông ly biệt Nghe lạnh lùng Cầu Ái Tử ngân vang
10/04/2013(Xem: 4306)
Nhiều năm Cha vẫn viết cho con Rồi bỗng nhiên Cha không viết nữa Tự hỏi lòng hay Cha kém mắt ?... Những bức thư không nói lên lời?....
10/04/2013(Xem: 4518)
Một bát hương thơm cúng tổ tiên Ân sâu nghĩa nặng tỏ bày lên Vu Lan báo hiếu nay còn nhớ Tảo mộ đền ơn vẫn chẳng quên Cha mãi chơi xa miền Cực Lạc
10/04/2013(Xem: 4378)
Ba mươi ngày ấy tối trời Sao mai mồng một sáng ngời niềm tin Mẹ mừng con mới vừa sinh, Lọt lòng mất sữa năm canh mẹ buồn.
10/04/2013(Xem: 5680)
Mùa thu sang thanh thanh trong xanh, Gió đưa làn mây trôi nhanh nhanh, Từng đàn chim đua nhau vây quanh, Mừng Vu Lan đang đăng lễ hội.
10/04/2013(Xem: 5744)
Ngày tôi biết gọi “ba” Nước nhà tôi yên hòa, Cha ngừng thôi chiến trận, Đi cải tạo miền xa. Mẹ vất vả quê nhà, Thay mặt cha nuôi dạy, Bầy con dại lớn khôn.
10/04/2013(Xem: 4672)
Nhìn nắng chiều tà tắt héo hon thời gian lặng lẽ bước ngày mòn vài con chim nhỏ bay trong gió vỗ cánh cuối trời, tiếng nỉ non.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]