Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bông hồng cài áo, trắng hay đỏ?

09/08/201909:14(Xem: 7667)
Bông hồng cài áo, trắng hay đỏ?

 hoa trang


Bông hồng cài áo, trắng hay đỏ?



Hôm ấy là mùa Vu Lan, các chùa cứ thay phiên nhau làm lễ bông hồng cài áo. Tôi ngồi buồn thỉu, buồn thiu nhìn bông hoa hồng trắng cài trên áo. Nhớ ngày tôi mất mẹ mới thật thê thảm, vì chưa ngộ được lý vô thường nên tôi không chấp nhận được việc khi đi làm về vào phòng chào mẹ chẳng thấy bóng bà. Tôi vật vã, thương nhớ khôn nguôi.

Những mùa Vu Lan đầu tiên phải cài hoa hồng trắng, tôi khóc nức nở, ai oán, mắt mũi đỏ hoe, nước mắt tèm lem. Những người chung quanh phải ái ngại dúi vào tay tôi những chiếc khăn giấy ân tình. Cái khổ của tôi là mỗi tuần tôi đi dự lễ Vu Lan tại một chùa ở nhiều nơi khác nhau, nên được cài rất nhiều hoa hồng trắng. Mùa Vu Lan mà! Tha hồ được khóc!

Đấy là chuyện của hai mươi năm về trước, chứ bây giờ mỗi lần nhớ mẹ tôi phải bắt chước cái ông nhà văn nào đó, để nước mắt nuốt ngược vào trong. Chắc tôi làm không xong rồi! Chẳng thà cho chảy tèm lem mà nhẹ bụng…

Tôi cho rằng việc phân biệt hai màu hoa đỏ trắng trong mùa nhớ mẹ không được nhân đạo cho lắm! Này nhé! Ngày thiêng liêng ấy, có hai phe: Bên cài hoa hồng đỏ, ỷ mình còn mẹ cứ cười toe toét, làm phe cài hoa hồng trắng tủi thân, nước mắt nuốt ngược vào trong như cái ông nào đó, hay nước mắt chảy tèm lem như tôi. Đằng nào cũng tội! 

Nhưng một hôm tôi đi dự lễ Vu Lan tại một Tu Viện vùng bờ hồ xinh đẹp bao quanh ba nước. Trong buổi giảng pháp vị Hòa Thượng đạo cao đức trọng đã đưa ra đề nghị sửa đổi chút xíu trong ý nghĩa của việc cài hoa, bông hoa hồng đỏ tượng trưng cho Mẹ, hoa hồng trắng tượng trưng cho Cha. Hình ảnh người Cha hay người Mẹ lúc nào cũng tồn tại mãi trong người con, giơ bàn tay lên là ta đã thấy hình ảnh của mẹ và cha trong đó. Chẳng phải ta sinh ra từ những gen và tinh huyết của cha mẹ hay sao?

Vị Hòa Thượng này còn đề nghị lên vị Thiền sư tác giả của đoản văn Bông hồng cài áo (mời nghe Ca Sĩ Giáo Linh hát bài này) xin hứa khả và phê chuẩn, nhưng chưa kịp làm thì... Nên đến giờ vẫn có người trong mùa Vu Lan hát bài “Tâm sự người cài hoa trắng“ của tác giả Thích Trường Khánh: "Mẹ hiền ơi! Mùa Vu Lan đã về rồi. Riêng con hoa trắng, trắng màu xót thương. Đời mất vui khi mẹ chẳng còn" (nghe bài này). Tôi nghe xong vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt, mùa Vu Lan năm tới sẽ đòi cho bằng được hoa hồng đỏ để cài vì mẹ không bao giờ chết trong ta.

Thế nhưng khi đàm đạo với cô bạn thân liền bị phản biện quay trở về chỗ cũ ngay lập tức. Nàng ấy nói rằng, phải phân biệt rõ ràng giữa trắng và đỏ để có được chánh niệm ngay giây phút ấy. Kẻ đeo hoa đỏ phải vui sướng nhớ rằng mình vẫn còn mẹ để phụng dưỡng hiếu đễ và mỗi ngày vào nắm tay mẹ thật chặt là đủ, không cần phải nói câu "Mẹ có biết rằng con thương mẹ lắm không!", vì có những thứ tình cảm không thể diễn tả bằng lời, nói ra e không đạt và ngượng ngùng. Còn người cài hoa trắng cũng phải hứa với hương linh của mẹ nguyện sẽ làm những điều hữu ích để mẹ được mỉm cười nơi chín suối. 

Cũng trong mùa Vu Lan, tôi đi dự lễ khất thực của các Chư Tăng Ni tại một ngôi chùa lớn. Bên cạnh các Vị đeo bình bát, kèm theo một Phật tử xách túi đựng những vật dụng do các thí chủ cúng dường. Tình cờ một cảnh khá đẹp đập vào mắt làm tôi nhớ đến hình ảnh của nàng Liên Hoa Sắc. Một cô nàng khá xinh đẹp, mặc áo dài màu cánh sen trong bùn khoát túi vải đi bên cạnh một vị Thầy đeo bình bát trong đoàn khất thực. Nếu ví von cô nàng là Liên Hoa Sắc thì vị Thầy kia phải là ngài Mục Kiền Liên. 

Cuộc đời nàng Liên Hoa Sắc quá tang thương, gắn liền với câu vè "Chồng chung với mẹ, chia chồng cùng con". Tôi đọc xong câu chuyện cứ ấm ức mãi, trong đầu luẩn quẩn câu hỏi "Nàng này làm nghiệp gì ở kiếp trước mà phải chịu thảm cảnh như vậy? " Biết để còn tránh!

Sau nhiều lần tìm kiếm trong mạng, tôi tìm được một tài liệu giải thích nghe cũng bùi tai. Có một kiếp nào đó, nàng làm "Bà mai". Nếu nàng mai mối cho người ta xứng đôi vừa lứa, vợ chồng ăn ở với nhau hạnh phúc thì cái đầu heo tặng bà mai cũng hợp lý. Nhưng đằng này nàng tham tiền vàng của mấy ông cụ nhà giàu, dùng tiền bạc để bắt ép mua các cô gái trẻ, đẹp, nhà nghèo về làm hầu thiếp cho các cụ ông. Sau này các cô gái quá khổ, họ kêu khóc oán hận bà mai tàn ác. Với cái nhân như thế nàng phải gánh cái quả cay nghiệt đó!

Thôi cứ tạm tin như thế để răn đe mọi người. 

Trở về với chữ Hiếu muôn thuở của chúng ta, lúc còn bé đi học bị thầy cô bắt học thuộc lòng các bài thơ song thất lục bát trong trường thiên “Nhị Thập Tứ Hiếu“, gồm hai mươi bốn tấm gương hiếu thảo của người xưa do Quách Cư Nghiệp biên soạn. Điển hình nhất vẫn là hai ông Mẫn Tử và Tử Lộ, đệ tử của cụ Khổng, ông thì gạt nước mắt xin cha đừng đuổi mẹ ghẻ ác nghiệt đi, rồi ca hai câu chí tình:

Mẹ còn chịu một thân côi.

Mẹ đi luống để cơ hàn cả ba.

Lòng hiếu của Mẫn Tử Khiên đã cảm đến lòng người và đưa đến bức tranh hạnh phúc:

        Cha nghe nói cũng sa giọt tủi.

        Mẹ nghe rồi cũng đổi nguồn cơn.

Còn Thầy Tử Lộ nổi tiếng với chuyện đội gạo đường xa về nuôi cha mẹ. Những ai ghiền cải lương chắc đã nghe qua sáu câu vọng cổ “Đội Gạo Đường Xa“ của soạn giả Kiên Giang - Hà Huy Hà:

        Thầy Tử Lộ vào chầu Khổng Tử.

        Gục đầu nức nở khóc như mưa.

        Nhớ những ngày rau cháo muối dưa.

        Con đội gạo đường xa nuôi mẹ.

Chữ Hiếu đời nay được thể hiện như thế nào qua hai người bạn tương phản của tôi, để xem hai người mẹ cùng bỏ công sức ra nuôi dạy cho con trai mình ăn học đến học vị Thạc Sĩ hay Phó Tiến Sĩ gì đó. Hãnh diện lắm đấy! Nhưng bà mẹ già trên 80 tuổi một hôm giở chứng không muốn ăn, chỉ muốn chết. Thế mà cậu con Tiến Sĩ của bà đã chiều lòng để bà chết đói. Tôi nghe xong lặng người, không muốn gặp mặt kết bạn với người này nữa. Từ đó tôi suy ra cái tam đoạn luận thật đơn giản: Cha mẹ họ còn đối xử như thế, làm sao họ tốt với ai?

Một anh bạn khác học cùng ngành, ngược lại thương mẹ cực kỳ! Bà cụ mẹ anh đã trên 90 vẫn được chăm sóc chu đáo, hôm nào bà cụ chê cơm chán chè không muốn ăn. Anh dùng kiến thức khoa học kỹ thuật mình học được, chế biến ra những thức ăn đầy dinh dưỡng tiếp sức cho mẹ. Đến khi mẹ cưỡi hạc qui tiên, anh vật vã thương nhớ khôn nguôi. Mỗi khi ra khỏi nhà, anh đều thắp cho mẹ một nén hương, chẳng cần biết mẹ ở phương trời nào có ấm bụng hay không, chứ anh cảm thấy rất yên tâm. Chưa hết, thông thường thiên hạ hay cài số năm sinh hay tuổi tác vào địa chỉ mail cho khỏi trùng tên với người khác, anh cài ngày anh mất mẹ cho dấu ấn thêm khắc sâu. Con người như thế tôi cần phải tìm đến để kết bạn, để học hỏi cái tâm.

Tuy nhiên cũng có những trường hợp day dứt, ăn năn của người con chưa làm tròn bổn phận với mẹ cha, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà cắn rứt trong lòng. Điển hình là lời thổ lộ của họa sĩ tài danh Nguyễn Trung, một tiền bối lão thành trong làng hội họa, vào năm 1960 đã bán bức tranh đầu tiên với giá ba trăm Đô-la. (Xét về mặt hình thức đã may mắn hơn cả Van Gogh của Hòa Lan, cả đời không bán được một bức tranh nào cho ra hồn, để rồi phải chết trong đói lạnh!).

Để trả lời câu hỏi “Nhìn lại, ông có bất kỳ điều gì hối tiếc?“ của một phóng viên trong tựa đề bài phỏng vấn: Họa sĩ Nguyễn Trung: ‘Nghĩ về mẹ, tôi vẫn day dứt đến giờ’. Ông nói:

-      “Không có gì quá to tát. Chỉ những chuyện nhỏ thôi. Tôi đã cố gắng chăm sóc mẹ khi bà lớn tuổi. Nhưng hồi đó tôi hay đi chơi với bạn bè, nhậu nhẹt, tiệc tùng, và không dành nhiều thời gian với mẹ. Nghĩ về mẹ, có nhiều chuyện vẫn làm tôi day dứt đến tận bây giờ. Bà thích ăn bánh canh, vì thế tôi đã đi ra chợ để mua bánh canh cho bà. Mẹ nói bà không ăn được vì bún dai quá. Tôi đã cảm thấy bực bội và nói với bà là ở chợ chỉ bán loại này thôi, tôi biết phải làm gì với món bánh canh dai nhách này đây. Bây giờ tôi cũng thích ăn bánh canh vào buổi sáng. Tôi nhận ra rằng mình có thể làm bánh canh mềm nếu nấu kỹ với nước lèo. Nghĩ lại, tôi thấy mình đã quá ngu ngốc. Tôi có thể nấu mềm bánh canh cho bà. Tôi thấy buồn vì những điều không thể làm cho mẹ. Đó là những điều nhỏ nhặt cứ đeo bám tôi mãi”.

Xin cám ơn lão tiền bối, đã đánh tiếng chuông cảnh tĩnh cho những ai đang còn hạnh phúc được cài trên áo bông hoa hồng đỏ trong ngày lễ Vu Lan. Họ còn có cơ hội để sửa sai, làm mới với các đấng sanh thành, không phải “Nghĩ về Mẹ, tôi vẫn day dứt đến giờ” nghe quá nhức nhối! Có phải thế không?

 

Hoa Lan - Thiện Giới.

2018.

 

  

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4301)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5702)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 4824)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4471)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4615)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4182)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5067)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5287)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4385)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
10/04/2013(Xem: 4595)
Đức Phật thường được ca tụng như một bậc vĩ nhân. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, bởi vì vĩ nhân thường được hiểu như những bậc kỳ tài xuất chúng trong một lĩnh vực nào đó, hoặc có thể là nhiều lĩnh vực, mang lại lợi lạc cho con người trong một mức độ nào đó. Có thể là một vĩ nhân ở phương Đông nhưng chưa hẵn là kỳ tài ở phương Tây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]