Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mùa Vu Lan nhớ nhà văn Võ Hồng

07/08/201309:38(Xem: 5548)
Mùa Vu Lan nhớ nhà văn Võ Hồng

Mùa Vu Lan nhớ nhà văn VÕ HỒNG

Thay_Vo_Hong_Thich_Giac_Tam
Năm nào cũng vậy mỗi khi sắp đến ngày lễ Vu Lan là tôi đọc lại Võ Hồng: Nghĩ về mẹ, Một bông hồng cho cha, Tiếng chuông triêu mộ, Áo em cài hoa trắng, Mái chùa xưa, Màu áo nâu sòng, Đi con đường khác, Hữu thân hữu khổ….
Đọc ông để ôn lại cách viết của ông, cách viết hết sức tình cảm ân nghĩa của ông, qua cách viết tràn ngập tình người, tình quê hương đất nước mà ông đã lay động không biết bao nhiêu trái tim hướng thiện, hướng về các đấng sinh thành. Có một năm nọ, nhân ngày lễ Vu Lan tôi có tặng cho một vị đi làm cách mạng nhưng đã về hưu một cuốn tùy bút “ Tiếng chuông triêu mộ”của nhà văn Võ Hồng. Đọc xong ông cảm ơn tôi và phát biểu: “ Tôi không ngờ đạo Phật dễ thương dễ cảm như vậy, nhiều chục năm nay tôi không để tâm đến vì nghĩ rằng đạo Phật mê tín dị đoan.

Đọc Võ Hồng tôi thích cách viết của ông với những câu:Bà con nông thôn gần gũi với chùa, thương kính ông Phật, không phải vì hiểu biết giáo lý Phật giáo. Những tiếng Tam quy, ngũ giới, Thập nhị nhân duyên... đa số không biết, không hiểu, mà chỉ biết nhìn theo các Thầy mà làm lành lánh dữ, cố gắng theo gương các Thầy mà bớt phạm sát sinh. Triết lý vốn sáng mà lạnh. Rất hay để nói, rất êm để nghe, mà phàm nói hay thì thường ít làm. Thì hãy cứ vui hồn nhiên như người đàn bà kia, tin rằng lễ Phật xong, đem tiền phát cho những người nghèo ngồi đợi xin ở bậc thềm trước chùa là lúc chết sẽ được Phật dắt về Tây phương Cực lạc”.

hoặc đoạn này: “ Mỗi lần chắp tay lắng nghe các Tăng Ni niệm bốn câu kệ, lòng tôi xúc động rộn ràng. Có hôm cơ hồ muốn rơi nước mắt khi nghe tụng tới câu PHIỀN NÃO VÔ TẬN THỆ NGUYỆN ÐOẠN. Tôi muốn cất tiếng kêu lên: Ðức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao”. và đoạn này nữa: “Tôi không là Phật tử. Không biết tụng kinh. Nhưng tôi lại dễ xao xuyến dạt dào mỗi lần nghe tiếng kinh tiếng mõ. Những lúc đó tôi tự nhiên trút bỏ mọi ảo vọng ở đời mà cuối nhìn xuống thân phận yếu đuối nhỏ mọn của mình. Chỉ một hơi thở thôi, cuộc đời chỉ có nghĩa là một hơi thở mà thôi, rất nhẹ và rất mong manh. Chỉ cần hơi thở ngừng lại nửa phút là giũ bỏ tất cả”.


Văn của ông như vậy đấy! Tâm của ông rất thiện lành, tình của ông chan hòa tất cả, một áng mây trời bay mông lung vô định, một tiếng chim chiều kêu vô vọng nơi thôn ấp xa, một giòng nước chảy dưới cầu Ngân Sơn , Tuy An , Phú Yên quê ông cũng làm lòng ông xao xuyến, và ông đã biết cách chuyển tải nỗi niềm xao xuyến, rung cảm của ông qua chúng ta, qua độc giả của ông, đời viết văn của ông, ông đã thành công là vậy.

Ông viết về Đạo Phật hay là vì ông được cái duyên sống gần Phật, ông có dạy ở Viện cao đẳng Phật học Hải Đức, có dạy ở trường Bồ Đề Nha Trang, tính ông hiền lành dễ gần gũi nên được các Thầy các Sư cô quý mến, Hòa thượng Trí Thủ và các vị cao tăng Phật giáo sống ở Nha Trang cũng rất thương quý ông. Tiếng niệm Phật, tiếng Đại hồng chung, tiếng chuông tiếng mõ, màu áo nâu sòng, sinh hoạt lễ hội của Phật giáo Nha Trang đã thầm lặng đi vào trong tâm ông mỗi khi mỗi ít, thấm đẫm lòng từ bi của nhà Phật mỗi ngày một chút, nên ông đã trở thành Phật tử lúc nào không hay, và viết về đạo Phật thâm trầm cảm động, tự nhiên như nhiên , như ta đã thấy qua các tác phẩm của ông. Về già là thế, còn những ngày còn trẻ tình yêu của ông lại càng dào dạt mông mênh hơn.

Lần đầu tiên đọc tác phẩm của ông là truyện dài Hoa Bươm Bướm cách đây gần 40 năm, tôi thích nhân vật Luân của ông ( cũng chính là ông)và tình yêu lãng mạn nhẹ nhàng của Luân với Quỳ (vợ ôngsau này):Trên chuyến tàu đêm từ Suối Cát về Tháp Chàm, Luân cầm tay Quỳ và nói như trong một giấc mơ. Rồi chàng rụt rè bỏ tay Quỳ ra, nhưng những ngón tay Quỳ xoay lên giữ bàn tay chàng lại, cầm bàn tay đó áp lên má mình đang đầy nước mắt”. Truyện “Con suối mùaxuân”là chuyện tình yêu đôi lứa mà ông viết rất thành công. Trong truyện có ba nhân vật chính: Mỹ Khuê, Tịnh và Annie. Truyện này tôi đọc rất lâu trong một tạp chí văn học trước năm 1975, đã lâu lắm rồi mà tôi vẫn còn nhớ được một đoạn rất có duyên như thế này: “Annie! Nàng đột nhiên hiện đến chiều nay nhí nhảnh, bất ngờ như một dòng suối nhỏ hát róc rách giữa một vùng hoa lá, nhưng cũng đủ làm xáo trộn hồn tôi. Rồi thoáng chốc nàng vụt bỏ đi, để tôi trầm ngâm đứng giữa bãi bể vắng này như con suối đã bỏ xa một vũng nước sâu nằm lặng yên trên bờ lau sậy, mang nặng trong lòng nó những lớp lá úa và những dải rong rối ren chằng chịt”.

Tôi luôn ngưỡng mộ người có tài có đức, có dịp là tìm thăm để biết mặt, để nghe tiếng nói, bởi trăm nghe không bằng một thấy. Chính vì vậy mà tôi biết rất nhiều các vị cao tăng Phật giáo, tìm gặp các nhà văn mà mình yêu thích, ít nhiều chịu ảnh hưởng của họ. Năm 2003 tôi có việc vào Nha Trang, tìm đến thăm Nhà Văn Võ Hồng ở số nhà 51 đường Hồng Bàng, đã tìm hiểu từ trước rồi, tôi khẽ khàng kéo dây chuông, một lát sau có một ông lão trán cao tóc bạc với đôi gò má cao ra mở cổng. Lần đầu tiên gặp nhà văn Võ Hồng, nhưng tôi đã nhìn thấy ông qua hình ảnh in trên sách báo tạp chí rồi, tấm ảnh của ông mà tôi thích nhất là tấm ảnh mà nhà văn Tạ Tỵ vẽ ông trong tác phẩm “10 khuôn mặt văn nghệ hôm nay”, chỉ vẽ nét thôi mà rất giống ông: Đầu to, trán cao, hai gò má cao, khuôn mặt xương xẩu.

Nhà văn Võ Hồng dắt tôi vào nhà, nhà vắng lặng lạnh lẽo vì thiếu bóng dáng đàn bà, con cháu. Ông sống một mình, cơm có người nấu đem tới cho ông. Sau khi chào hỏi xã giao, ông tự đi pha nước mời tôi, nhà cửa bộn bề sách vở ngổn ngang, ông tiếp chuyện tôi thân tình vì biết tôi là một độc giả yêu thích tác phẩm ông, đọc ông rất nhiều, và có hiểu ông nữa. Tôi liệt kê các tác phẩm của ông viết mà tôi đã đọc qua: “Từ tác phẩm đầu tiên Hoài cố nhân 1959, Hoa bươm bướm 1966, cho đến tác phẩm in sau 1975 Trong vùng rêu im lặng… Cho ông nghe, tôi có nhắc đến truyện Con suối mùa xuân, Tiếng chuông triêu mộ, Đi con đường khác… Ông nói Thầy đọc tôi hiểu tôi, làm tôi cảm động quá! Ở Nha Trang đây có thầy Thích Phước An cũng thích văn tôi, có lần Thầy Phước An nói với tôi là cách viết của Thầy có ảnh hưởng từ cách viết của tôi, tôi cảm ơn quý Thầy.

Cùng đi với tôi đến thăm ông có Phật tử Long người Nha Trang, tôi nói Long đi nhờ một người thợ chụp ảnh đến để chụp một vài tấm ảnh để kỷ niệm với ông. Ông nói để tôi thay cái quần, mặc cái áo cho đàng hoàng để chụp ảnh với Thầy, ăn mặc không nghiêm chỉnh chụp ảnh với Thầy kỳ lắm! Lên căn gát phía trên tôi lấy chiếc ghế nhựa mời ông ngồi xuống, tôi đứng phía sau, rồi bảo người thợ bấm máy. Ông nói: “Tôi ngồi mà Thầy đứng thất lễ chết”. Tôi trả lời: “ Không sau đâu Thầy (rất nhiều người gọi nhà văn Võ Hồng là thầy) con chỉ là một người học trò nhỏ của Thầy thôi mà, với lại tuổi đời Thầy đáng tuổi ba con”. Haitấm kế tiếp tôi với ông cùng ngồi cùng đứng với nhau.

Văn nghiệp của ông để lại cho đời, cho nền văn học Việt Nam rất đáng kể, nhìn những tác phẩm liệt kê sau đây chúng ta sẽ nhận ra điều đó: Truyện đầu tay của ông đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Hà Nội) năm 1939 với bút hiệu Ngân Sơn. Các tác phẩm đã xuất bản của Võ Hồng gồm có các tiểu thuyết: Hoài Cố Nhân (Ban Mai, 1959), Hoa Bươm Bướm (Lá Bối, 1966), Người Về Đầu Non(Văn, 1968), Gió Cuốn(Lá Bối, 1968), Những Giọt Đắng(Lá Bối, 1969), Nhánh Rong Phiêu Bạc(Lá Bối, 1970), Như Cánh Chim Bay(tiếp Hoa Bươm Bướm, Lá Bối, 1971). Các tập truyện ngắn: Lá Vẫn Xanh(Thời Mới, 1962), Vết Hằn Năm Tháng (Lá Bối, 1965), Khoảng Mát(An Tiêm, 1966), Con Suối Mùa Xuân(Lá Bối, 1966), Bên Kia Đường(Mặt Trời, 1968), Trầm Mặc Cây Rừng(Lá Bối, 1971), Áo Em Cài Hoa Trắng(Lá Bối, 1969), Trận Đòn Hòa Giải(Lá Bối, 1970), Xuất Hành Năm Mới (Lá Bối, 1971) ……

Trong tác phẩm của ông chúng ta thấy được tình yêu đất nước, quê hương của ông, ông luôn nặng lòng với quê hương của ông, làng Ngân Sơn, An Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, rất nhiều trang viết của ông là hình ảnh quê nhà, chùa nhà, cây khế cây chanh nhà, tiếng chim nhà….Tình yêu chung, tình yêu riêng của ông cũng lai láng mật ngọt, nhưng rồi ông luôn than thở mình cô đơn: “Ðức Phật ơi, hãy giúp giùm cắt đứt mọi phiền não bủa vây tâm hồn con. con đang cô đơn biết bao”. Trong những bức thư viết riêng cho nhà văn Mang Viên Long ông cũng luôn than thở: “… Thư nhận vào dịp Tết nhộn nhịp nên không kịp hồi âm. Mong anh thứ lỗi khiếm nhã. Tôi vốn không đến nỗi lười nhưng mà những ngày tháng gần đây cũng thêm heo hút cô đơn nên tôi lì tôi bỏ phế hết. Cả đến chuyện viết lách và làm ăn.” (thư 27-2-72).

Vợ ông mất khi ông còn rất trẻ 35 tuổi, ở vậy nuôi ba con cho ăn học thành tài, và định cư ở nước ngoài, còn ông, ông vẫn ở lại một thân một mình, âm thầm lặng lẽ, ẩn cư. Ông thường than thở mình cô đơn là vậy. Năm tôi ghé thăm ông 2003, trí nhớ ông còn minh mẫn nhớ đến tác phẩm mình, nhớ đến nhân vật trong tác phẩm mình, nhưng rồi sau đó mỗi ngày mỗi bệnh tật, trí nhớ kém dần ông bắt đầu lãng quên, quên tác phẩm mình viết, quên nhân vật mình viết, quên những kỷ niệm đẹp của một thời hoa mộng, quên tiếng chuông thu không của chùa Hải Đức, quên màu áo nâu sòng của các Thầy, các Sư cô vốn là học trò mình, quên cả người thân của mình nữa, những năm tháng cuối đời người con gái mà ông thương yêu nhất đã từ Pháp về ở bên cạnh ông , chăm sóc cho ông, đó là chị Võ thị Diệu Hằng, ngưỡng mộ tài năng chị có lần tôi đã điện thoại hỏi thăm.

Sinh lão bệnh tử trong kiếp người ai cũng phải trải qua, đi qua. Nhưng với chúng ta: tôi, anh,chị, em…. kẻ không có danh tiếng gì, không có đóng góp gì cho cuộc đời, nhân thế. Đến đi trong trần gian này cũng chỉ như viên sỏi nhỏ ném vào lòng đại dương, xao dợn lăn tăn rồi chìm vào hư vô quên lãng, không có gì đáng nói để nói. Còn với các vị có đóng góp lớn cho đời cho đạo về già mà mất trí nhớ, lú lẫn, lòng chúng ta cảm thương vô hạn.

Chỉ cần đọc lại văn nghiệp của ông, hoặc nếu không thể chỉ cần đọc lại những đoạn trích dẫn ngắn ở trên, hoặc rải rác đây đó, chúng ta cũng thấy được tấm lòng ông đối với nhân thế, văn phong của ông chân chất mà tài hoa rất mực. Rồi vô thường đến ông lặng lẽ, lãng quên tất cả, quẳng đi tất cả để ra đi. Tấm lòng vì nhân thế của ông, văn chương chữ nghĩa đầy tính nhân văn để lại cho đời, tâm ông lành và thiện chắc chắn ông sẽ tái sinh vào cảnh giới tốt đẹp. Cũng như mọi năm, mùa Vu Lan năm nay chùa Bửu Minh của chúng tôi sẽ có lễ bông hông cài áo, sẽ đọc đoản văn Bông hồng cài áo của thiền sư NH, và tùy bút Nghĩ về mẹ, Một bông hồng cho cha, của ông, để nhắc nhở Phật tử mình rằng cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tột điều ác không gì hơn bất hiếu.

Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, ngồi viết lại những dòng chữ đầy kỷ niệm với ông, để nhớ ông, để học hỏi cách viết của ông, và cũng nhắc mình rằng nhớ cầu siêu cho ông trong ngày Đại lễ Vu Lan báo hiếu, một nhà văn cư sĩ Phật tử chân chính của nhà Phật. Ông mất ngày 31.3.2013 (20 tháng 2, Quý Tỵ) hưởng thọ 92 tuổi.

Mùa Vu Lan PL.2557 (2013)

Chùa Bửu Minh, Ngày 29 tháng 6 năm Quý Tỵ

Thích Giác Tâm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 7122)
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: "Tín là gốc của Đạo, là mẹ đẻ của mọi thứ công đức, nuôi lớn hết thảy gốc của Thiện". Đối với tôn giáo nói chung, đức tin phần lớn là bước đầu tiên để con người phát sinh lòng mến yêu đạo. Trong đạo Phật, tín là một trong những điều kiện căn bản để thành tựu các công đức lành (Tín- Hạnh- nguyện). Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nói: Tin ta mà không hiểu ta là hủy báng ta.
10/04/2013(Xem: 4888)
Trong tất cả công việc, trước khi tiến hành thì bao giờ cũng vậy, chúng ta thường nghĩ đến mục đích của công việc sẽ làm sau đó, đưa ra nhiều suy tính, cách làm nào để đạt đến mục đích ấy. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng lý tưởng, ước vọng công việc trong mỗi người ai cũng có, nhưng không phải ai cũng có thể thực hiện được. Có người đạt được mục tiêu trong thời gian ngắn, có người tốn kém nhiều thời gian, có người dễ dàng nhưng với người khác thì không thể trôi chảy. Cuối cùng vẫn có những người không bao giờ đạt được mục tiêu mà mình đã đề ra.
10/04/2013(Xem: 4576)
Để trở thành một người Phật tử, việc phát nguyện Quy y Tam Bảo và giữ gìn Ngũ giới là tâm nguyện, là việc cần làm đầu tiên. Do đó, chúng ta cần phải học và tìm hiểu, để thực hành hầu mang lại nhiều lợi lạc cho chính chúng ta, gia đình và khả dĩ kiến tạo một xã hội tốt đẹp.
10/04/2013(Xem: 4652)
Như chúng ta đã biết, Phật giáo Thái Lan là một trung tâm Phật giáo Nguyên thủy có tầm cỡ trong khu vực cũng như trên thế giới, về chất cũng như lượng. Ở Thái Lan, Phật giáo là quốc giáo, hơn 95% dân chúng Thái theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy. Bên cạnh đó, không kể một số lượng lớn người nước ngoài đến Thái Lan để tu tập, nghiên cứu và học hỏi về truyền thống Phật giáo này.
10/04/2013(Xem: 5361)
Phật sự viên thành là lời tán thán, cầu nguyện chúng ta thường nghe trong lễ hội, các buổi tụng kinh sau phần hồi hướng, ước nguyện thành tựu của những người con Phật luôn mong muốn trong sự thừa hành Phật đạo. Ý nghĩa cao cả của người Phật tử ở phần tự thân (tự giác) là giải trừ tam độc ở mỗi con người, diệt trừ mọi phiền não, nhằm hướng đến nhất tâm thanh tịnh.
10/04/2013(Xem: 5017)
Con đường đi đến mục đích tối hậu của đạo Phật là Giải thoát và Giác ngộ thì có rất nhiều, điều này rất hữu ích và thiết thực trong bối cảnh đa dạng về nghiệp cảm và sự sai khác về chủng tánh của chúng sanh. Đức Phật với suối nguồn tuệ giác, ngài đã quan sát đầy đủ mọi căn cơ của chúng sanh mà dùng nhiều phương tiện để hóa độ, phù hợp với mọi tâm bệnh như vị lương y giỏi dựa theo bệnh mà cho thuốc.
10/04/2013(Xem: 4285)
Hạnh phúc thay chư Phật ra đời! Xã hội Ấn Độ thời Đức Phật đản sinh, nằm trong một trạng thái đen tối và nhiều đau khổ. Sự u ám đó không phải phát sinh đơn thuần từ nghèo đói, bệnh tật mà chính là sự bế tắc từ tư tưởng con người. Biết bao học thuyết được dựng lên nhằm góp phần xóa tan nỗi khó khăn này bởi những nhà tư tưởng, tôn giáo, đạo học, tuy nhiên vẫn không chữa được căn bệnh mà con người đang vướng phải trong tâm thức của họ.
10/04/2013(Xem: 4244)
Bạn đã từng hỏi tôi: giữa cuộc đời này có tình yêu chân thật hay không? Câu hỏi quá sức hóc búa này, không phải khó đối với riêng tôi, mà khó trả lời cho rất nhiều người trong từng thời đại. Vì đây chính nội dung câu hỏi mang đầy tính thời sự và nhạy cảm của nhiều giới, mọi lứa tuổi.
10/04/2013(Xem: 4208)
Sống và Chết là hai vấn đề tối trọng. Đã biết bao nhiêu nhà tư tưởng, triết gia cho đến hàng thứ dân, tất cả đã tốn nhiều công sức, bút mực, và để tâm tìm hiểu đến vấn đề này. Thế mới biết sống và chết thật hệ trọng biết bao, cho thân phận con người trong trần thế.
10/04/2013(Xem: 4027)
Hướng nhìn về vầng trăng trên cao, mỗi người trong chúng ta sẽ có rất nhiều cách nhìn và suy nghĩ khác nhau phụ thuộc vào cảm thụ, cảm thức từng người. Tùy thời điểm rung động sai biệt của con tim, vầng trăng bất động tưởng chừng như vô thức sẽ trở nên sống động và hàm ẩn nhiều ý nghĩa dạt dào. Ở đây, hình tượng vầng trăng mà tôi nói đến chính là một điểm để hướng về, một nơi qui hướng tin cậy, một nhân cách sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]