Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Di sản tinh thần

03/08/201114:55(Xem: 3660)
4. Di sản tinh thần

VU LAN VÀ TUỔI TRẺ
Thông Huệ
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2008

DI SẢN TINH THẦN

Có hai di sản trên đời: Di sản vật chất và di sản tinh thần. Di sản vật chất nuôi dưỡng thân tướng tứ đại, bảo dưỡng sống còn trong một thời gian; di sản tinh thần là món ăn nuôi dưỡng phần tâm linh ngày thêm lành mạnh, trong sáng.

Một chúng sanh hữu tình phải hội đủ hai phần: Phần vật chất gồm tứ đại giả hợp thành thân; phần tinh thần gồm các hoạt động tâm lý giả hợp thành tâm. Vì giả hợp nên thân chỉ là vọng thân, tâm chỉ là vọng tâm. Cái bệnh thâm căn của chúng sanh là đem cái vọng tâm, đam mê cái vọng thân, làm nô lệ cho vọng cảnh, khởi sinh đủ thứ phiền não, tạo tác đủ thứ nghiệp, thọ khổ đến không cùng.

Người đệ tử Phật sống trong tỉnh thức, xem món ăn tinh thần là tối cần thiết cho sự sinh tồn, bèn soi ánh sáng trở lại quán sát thân, tâm và ngoại cảnh, chuyển hướng đến một đời sống cao thượng, biết tôn thờ những giá trị thiêng liêng, tạo nên phẩm cách cao quý của một con người.

Di sản tinh thần là kết tinh kinh nghiệm tâm linh, trải qua nhiều thế hệ của tổ tiên trao lại. Những giá trị tinh thần là gia tài chung của mỗi người cần giữ gìn và đem trao tặng lại những thế hệ mai sau.

Đời sống hướng thượng được nhiều người ưa chuộng, bởi vì họ ý thức rằng sự hiện hữu của cái “TA” chỉ là sự tồn tại tạm thời trong kiếp luân hồi vô tận. Ai ai trong cuộc đời cũng cất bước phiêu lưu đi tìm hạnh phúc, nhưng mấy ai là người đạt được chân hạnh phúc. Chân hạnh phúc không thể tìm kiếm nơi ngoại vật phù phiếm, mà chỉ có thể tìm kiếm từ bên trong. Tinh thần cũng là chủ của thể xác, đừng để thể xác chi phối đời sống tinh thần cao thượng bên trong.

Thái độ của người Phật tử Việt Nam biết quý chuộng đạo đức, xem nhẹ lợi danh qua hai câu ca dao:

Dầu ai chác lợi mua danh
Miễn ta học được đạo lành thì thôi”.

Người cha người mẹ biết ăn ở hiền lương đạo đức là đã biết tích chứa vốn liếng tinh thần truyền lại cho con cháu mình. Có người suốt đời chỉ lo trau dồi học thức, dành cho bằng được một địa vị, nhưng học thức cho lắm, địa vị cho cao mà không có đạo đức cũng chỉ là người ác.

Đức Khổng Tử thì dạy hàng môn đệ xem trọng đạo lý mà coi thường cái chết:

Sáng nghe hiểu được đạo lý, chiều chết cũng cam lòng”.
(Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ).

Đức Phật nói lên giá trị của nhân sinh là nhận hiểu sâu xa cái lý pháp thường hằng chi phối muôn ngàn hiện tượng sai biệt:

Ai sống một trăm năm
Không thấy Pháp sanh diệt

Không bằng sống một ngày

Thấy được pháp sanh diệt”.

Tâm niệm ngưỡng mộ chánh pháp là động cơ thúc đẩy con người từ hạng phàm phu tiến lên quả vị Hiền Thánh. Vì không hướng thiện, không ngưỡng mộ chánh pháp, không biết tu hành nên rất nhiều chúng sanh bị rơi vào ác đạo. Phật dạy: “Số ít là các loại hữu tình được tái sinh giữa loài người; nhưng nhiều hơn là các loài hữu tình tái sanh ra ngoài loài người. Cũng vậy, số ít là các loài hữu tình ấy được tái sanh ở các Quốc độ trung ương; nhưng nhiều hơn là các loại hữu tình phải tái sanh ở các Quốc độ biên địa, giữa các loài man rợ không biết nhận thức”. (Tăng Chi Bộ Kinh, tập I, trang 45)

Đức Phật tuy đã nhập diệt từ lâu, nhưng Ngài đã để lại kho tàng Pháp Bảo, cứu vớt vô số chúng sanh lặn hụp trong biển khổ trầm luân. Chánh pháp của Phật là những liều thuốc hay, có công năng trị bệnh phiền não cho chúng sanh; là con thuyền đưa người qua bể khổ; là ngọn hải đăng phá tan màn đêm vô minh hắc ám. Người con Phật chân chánh, hãy thu nhận những kiến thức cao đẹp, những giá trị tinh thần lành mạnh để thực hiện sự chuyển hóa bản thân.

Dù xã hội loài người có tiến bộ đến đâu, khoa học có cung ứng đời sống tiện nghi đủ đầy, thì những giá trị tinh thần của sự sống vẫn được người ta tôn thờ. Cái văn minh đáng biểu dương lại không phải là cái văn minh vật chất. Đã đến lúc con người thời đại thấy rằng, văn minh tâm linh và những giá trị tinh thần mới đóng góp đắc lực và tích cực cho con người và xã hội. Thời đại nào cũng vậy, không ai khen những kẻ độc ác xảo trá, không ai chê những người đạo đức nhân từ. Khoa học chỉ có thể giúp ta thỏa mãn vật chất nhất thời, chứ không thể giúp ta được an vui vĩnh cửu. Một khi tự thấy có phiền não khổ đau đang thống trị nơi tâm thức, liệu vật chất có thể đẩy lui phiền não khổ đau chăng? Tiện nghi đời sống chỉ là phương tiện cần thiết ở bên ngoài, Phật pháp mới đích thực ban cho ta lý tưởng đời sống tinh thần bên trong. Tiện nghi vật chất như một ngôi nhà được trang hoàng lộng lẫy sắc màu, đời sống tinh thần như những người sinh hoạt trong ngôi nhà lộng lẫy sắc màu ấy. Thế nên, người có sức tự chủ biết sử dụng những tiện nghi của đời sống bằng thái độ của một người chủ, và dĩ nhiên, không thể có thái độ như một kẻ nô lệ.

Hàng đệ tử Phật cũng chính là những người con tinh thần đem đạo vào đời. Và những di sản tinh thần ngày hôm nay chúng ta thừa hưởng là những tặng phẩm của các bậc tiền bối, chúng ta phải có bổn phận giữ gìn để vun bồi cho cuộc sống ngày thêm tươi đẹp, an vui, đóng góp hữu hiệu vào sự an bình và thịnh vượng của xã hội loài người hôm nay và ngày mai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/07/2014(Xem: 9191)
"Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới tỏa khắp rạch sông" Được làm người công đức của cha ông Nên danh phận cảm nhờ ơn xã hội Chúng ta được thân làm người, là nhờ có tổ tiên, ông bà, cha mẹ và nhiều nhân duyên hội tụ. Chúng ta được khôn lớn nên người là nhờ ở sự trưởng dưỡng, giáo dục của Cha, Mẹ, Thầy, Cô và Xã Hội. Công ơn to lớn ấy, trong kinh Phật đã dạy có Bốn Đại trọng ân: 1/ Ơn Quốc gia, thủy thổ, 2/ ơn Cha, Mẹ, 3/ Ơn Tam bảo, 4/ Ơn Đàn na tín thí (xã hội), trong đó công ơn của cha mẹ là to lớn nhất, sánh bằng non biển, không thể bút mực nào tả xiết. Chỉ có tri niệm và thực hành mới hy vọng có một chút đáp đền. Đức Phật đã dạy rằng: công ơn của cha mẹ bao la như biển cả và cao vòi vọi như trời xanh vô hạn, với sự hy sinh cao đẹp, “bên ước mẹ nằm, bên ráo phần con”, thật là “ Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng Mẹ, gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng Cha”, Thương và lo cho con nên “miễn sao có lợi thì làm, chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm…”.
29/07/2014(Xem: 25011)
Hồng đỏ cài lên đẹp tuyệt vời Phải nên trân trọng nhé người ơi! Những ai còn mẹ còn hồng đỏ Màu đỏ thắm tươi vẻ rạng ngời
24/07/2014(Xem: 4638)
Tối nay ngồi vẽ Mẹ. Một người Mẹ của đồng quê đất Việt. Da mặt Mẹ đã xạm đen vì dãi dầu. Đôi mắt Mẹ đã trĩu xuống vì suy nghĩ, vì chịu đựng, vì lo lắng cho các con. Đôi môi Mẹ đã khô khan nứt nẻ, vì tranh thủ, vì buôn bán, vì cãi cọ, vì van xin, vì cầu nguyện.
24/07/2014(Xem: 4459)
Vu Lan là lễ truyền thống lâu đời có từ thời Đức Phật còn tại thế hơn 2,500 năm trước; đồng thời cũng là lễ tiết quan trọng phổ thông của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa mà tổ tiên chúng ta đã giữ gìn qua nhiều thế hệ. Lễ tiết Vu Lan hay Vu Lan thắng hội gắn liền với lễ giải Hạ - Tự tứ của Tăng đoàn Phật Giáo. Lễ Tự tứ có nghĩa là sau những tháng ngày tịnh tu Giới - Định - Tuệ, ba nghiệp của hành giả sâu lắng thanh tịnh; hai vị Tỳ kheo đối thú nhau chân thành bày tỏ khởi đi từ đạo tình cao quý nhẹ nhàng trong sáu tiếng: thấy tội, nghe tội, nghi tội, những mong đợi vị thầy đối diện chỉ bày cho ta thành tâm sám hối trước hội chúng và Tam Bảo, nguyện cải đổi không tái phạm, nếu xét thấy mình có tội. Thật là thành khẩn, cao đẹp trong hòa hài, từ bi, nhẫn thuận, bình đẳng. Nhẹ nhàng nhưng mang chất liệu tuệ giác tự thân và san sẻ với giác tha của người đối diện kết nên vòng nhân duyên thù thắng hầu tiến đến giác hạnh viên mãn.
24/07/2014(Xem: 4479)
Mỗi mùa Vu Lan đến Biết bao dòng lệ rơi Cho tình vô bờ bến Bày tỏ không nên lời Nghẹn ngào trong nước mắt Tưởng nhớ đến mẹ cha Ân tình cao chất ngất Suốt đời đã bôn ba
19/07/2014(Xem: 5077)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phật giáo chủ trương nhân quả theo nhau như hình với bóng, nghĩa là người gây nhân lành ắt sẽ hưởng quả tốt, ngược lại kẻ tham lam, vị kỷ, độc ác... chỉ biết lợi mình, không kể đến hậu quả làm phiền lụy khổ đau cho tha nhân, rộng ra là cả sinh linh vạn loại, đương nhiên sẽ gặp những phiền toái, chịu đựng những trách móc, oán hận của những nạn nhân, hay khi xả bỏ cuộc sống sẽ lãnh sự trừng phạt trong 3 ác đạo mà thế nhân hay tín ngưỡng nào cũng nghĩ bàn để khuyến miễn người đời phải lo tu thân hành thiện, làm đẹp nhân sinh. Mùa Vu Lan báo hiếu phát xuất từ đức Mục Kiền Liên kiếm tìm, thăm viếng rồi giải thoát mẹ ngài khỏi cảnh giới ngạ quỷ, có từ thời đức Phật còn tại thế; văn hóa thế nhân có từ khi loài người hướng về nẻo thiện. Gần chúng ta là văn hóa Á Đông, lấy nhân luân làm căn bản: Hiếu, đễ, tru
18/07/2014(Xem: 5009)
Nhờ năng lực của Tăng đoàn mà mẫu thân của ngài Mục Kiền Liên được thoát khỏi cảnh bi thống nơi chốn địa ngục. Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp là năng lực vô biên hóa giải được khổ đau từ cõi vô hình cho đến thế giới con người. Trọng tâm của Giáo hội chúng ta đặt ở sự hiệp lực này, trong ấy những Phật sự hằng năm của Giáo hội, tất cả tăng ni và thiện tín cùng nhau chung lo. Bốn phật sự thường xuyên của Giáo hội mà mỗi thành viên đều chung sức chung lòng đó là: Phật đản, An Cư, Khóa Tu Học Bắc Mỹ và Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ.
15/05/2014(Xem: 7156)
Hôm nay ngày giỗ của Ba tôi, tự dưng lòng tôi thèm viết một chuyện gì đó về Ba tôi…như nhà văn Võ Hồng thường khuyên mọi người nên viết lại những kỷ niệm sinh hoạt của cha, của mẹ mình, những kỷ niệm mà mình nhớ hơn hết, đáng nhớ hơn hết…để nhân ngày k?giỗ của cha mẹ, tập trung về, cùng đọc, cùng nghe, cùng xúc động, hồi tưởng công ơn. Con cháu sẽ có dịp sống lại không khí đại gia đình, con nhớ thương cha mẹ, cháu gần gủi, quý trọng ông bà!
16/10/2013(Xem: 19446)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
16/10/2013(Xem: 15437)
Kính lạy vong linh cha, Khác biệt với muôn ngàn trường hợp khi cầm viết đặt lên giấy. Con ghi lại vài nét – chỉ vài nét thôi về đời sống của cha – một người cha có lắm điều độc đáo, không những chỉ trong hàng con cháu mà bất cứ ai cũng công nhận là hãn hữu và cần rút tỉa những điểm son để soi sáng vào nếp sống của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]