Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Người nghèo Sutana hiếu dưỡng cha mẹ

09/03/201108:46(Xem: 7735)
3. Người nghèo Sutana hiếu dưỡng cha mẹ

TRUYỆN TÍCH VU LAN PHẬT GIÁO
Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Người nghèo Sutana hiếu dưỡng cha mẹ

Thời quá khứ, trong kinh thành Bàrànasì, Bồ Tát Sutana tiền thân của đức Phật Thích-ca là một người nghèo làm thuê phụng dưỡng cha mẹ. Khi cha qua đời, lại lo việc phụng dưỡng mẹ.

Vào thời ấy, đức vua trong kinh thành Bàrànasì có thú săn nai. Một hôm, vua ngự cùng các quan vào rừng, truyền lệnh rằng:

– Nai chạy về hướng người nào, người ấy phải bắt cho được.

Khi ấy, một con nai chạy về phía vua. Vua lấy cung tên bắn, con nai giả bộ trúng tên nằm lăn xuống đất. Vua vừa đến bắt, con nai lại đứng dậy bỏ chạy. Vua đuổi theo kịp, dùng gươm chặt ra làm 2 phần, lấy cây gánh quay trở lại. Vì mệt quá, nên vua ghé lại gốc cây da, định nằm nghỉ một lát mới đứng dậy trở về.

Tại cây da ấy, có quỷ dạ-xoa tên là Maghadeva thường trú nơi ấy, hiện ra nắm tay vua bảo rằng:

–– Hãy đứng lại! Hôm nay nhà ngươi là vật thực của ta.

Đức Vua hoảng sợ hỏi rằng:

– Ngươi chỉ ăn thịt ta ngày hôm nay thôi, hay ngươi ăn thịt hằng ngày?

Dạ xoa đáp rằng:

– Khi có thịt, ta sẽ ăn hằng ngày.

Vua nói rằng:

– Ta là đức vua trị vì ở kinh thành Bàrànasì này. Hôm nay ngươi hãy ăn món thịt nai này, để cho ta về cung. Bắt đầu ngày mai, mỗi ngày ta sẽ nạp cho ngươi một người để ăn thịt.

Dạ-xoa nói:

– Nếu vậy, nhà ngươi không được thất hứa. Ngày nào ngươi không nạp một người mang mâm đồ ăn đến cho ta, ta sẽ bắt ngươi ăn thịt.

Vua cam kết sẽ làm theo lời hứa, dạ-xoa liền tha chết, để cho vua hồi cung.

Khi hồi cung, bắt đầu ngày hôm sau, vua truyền lệnh mỗi ngày bắt một phạm nhân mang một mâm đồ ăn đến nạp cho quỷ dạ-xoa. Dạ-xoa ăn mâm đồ ăn xong rồi ăn thịt người ấy.

Qua một thời gian lâu, không còn phạm nhân. Đến các tù nhân thường cũng không còn. Đức vua hoảng sợ, vì nếu không có người nạp cho dạ-xoa ăn thịt, thì dạ-xoa sẽ đến bắt đức vua mà ăn. Đức vua bèn cho người cưỡi voi đem theo 1.000 đồng tiền vàng mà truyền chiếu chỉ rằng:

– Ai có thể đem mâm vật thực đến nạp cho dạ-xoa, sẽ được thưởng 1.000 đồng vàng này.

Nghe vậy, Bồ Tát xin nhận 1.000 đồng vàng đem về dâng cho mẹ, rồi vào yết kiến đức vua.

Đức Vua hỏi:

– Nhà ngươi sẽ đem mâm đồ ăn nạp cho dạ-xoa có phải không?

– Tâu đại vương, đúng vậy. Kẻ tiện dân này sẽ đem mâm đồ ăn nạp cho dạ-xoa.

Vua hỏi:

– Nhà ngươi cần những gì?

– Tâu đại vương, kẻ tiện dân này cần một đôi hài vàng, 1 chiếc lọng vàng, và 1 thanh kiếm báu của đại vương.

Vua lại hỏi:

– Tại sao nhà ngươi cần những thứ quý báu ấy?

Bồ Tát giải thích rằng:

– Tâu đại vương, bởi vì, dạ-xoa chỉ được phép ăn thịt người đứng trên mặt đất và dưới bóng cây trong phạm vi của y mà thôi; còn tiện dân đứng trên đôi hài vàng và dưới bóng của chiếc lọng vàng, thì dạ-xoa không được phép ăn thịt tiện dân. Và thông thường hàng phi nhân sợ người có khí giới trong tay; khi tiện dân có thanh kiếm báu trong tay thì dạ-xoa không dám đến gần. Nếu y tiến đến bắt tiện dân ăn thịt, thì tiện dân sẽ giết chết y bằng thanh kiếm báu này.

Nghe lời giải thích của Bồ Tát, vua rất hài lòng và hỏi rằng:

– Nhà ngươi cần thêm gì nữa?

– Tâu đại vương, những thứ đồ ăn đặt trên một chiếc mâm thường, không xứng đáng với hạng người trí như tiện dân. Vì vậy, xin đặt những đồ ăn trên chiếc mâm bằng vàng, mà đại vương thường dùng hằng ngày.

Vua ban cho Bồ Tát Sutana những thứ ấy, và cho lính theo hầu hạ Bồ Tát. Nhờ lính mang theo những thứ báu ấy, đến gần nơi ở của dạ-xoa, rồi Bồ Tát bảo họ chờ nơi ấy. Bồ Tát mang đôi hài vàng, che chiếc lọng vàng trên đầu, đặt mâm đồ ăn trên đầu thanh kiếm báu, đứng phía ngoài ranh giới của bóng cây, trao mâm đồ ăn cho dạ-xoa.

Dạ xoa nghĩ rằng: “Ta sẽ lừa người này vào trong bóng cây rồi ăn thịt y”, và động viên khuyến khích rằng:

– Xin mời bạn vào đây, chúng ta cùng nhau dùng vật thực.

Bồ Tát bảo rằng:

– Ta nói cho ngươi biết, ngươi chớ hòng lừa ta. Hôm nay, vua nạp ta cho ngươi ăn thịt. Nhưng ngươi không có quyền ăn thịt ta được. Bởi vì hôm nay ta đến đây, đứng trên đôi hài vàng của vua, không đứng trên phạm vi mặt đất của ngươi; và ta đứng dưới chiếc lọng vàng của vua, không đứng dưới bóng cây của ngươi. Như vậy, ngươi không có lý do gì để ăn thịt ta được.

Nếu ngươi muốn cố ý ăn thịt ta, thì ta sẽ dùng thanh kiếm báu của vua giết chết ngươi hôm nay.

Lắng nghe lời nói hùng hồn, cương quyết của Bồ Tát, dạ-xoa nghĩ rằng: “Người này nói rất đúng, một con người dũng cảm, không hề biết sợ.”

Rồi dạ-xoa phát sanh đức tin trong sạch với Bồ Tát, xin nhận món đồ ăn. Ăn xong dạ-xoa thưa rằng:

– Kính thưa bậc thiện trí, xin ngài trở về được an toàn. Thân mẫu của ngài đang trông chờ ngài.

Bồ Tát dạy rằng:

– Này bạn, kiếp trước bạn đã tạo ác nghiệp nên tái sanh làm kiếp dạ-xoa ăn thịt người. Kể từ nay về sau, xin bạn chớ nên tạo ác nghiệp sát sanh nữa.

Bồ Tát liền thuyết giảng quả báu của sự giữ gìn ngũ giới và tội lỗi của sự phá giới.

Dạ-xoa phát sanh đức tin trong sạch nơi Bồ Tát, xin thọ trì ngũ giới. Bồ Tát động viên khuyến khích rằng:

– Này bạn, bạn ở trong rừng này không ích lợi gì đâu! Xin bạn hãy đi với tôi ra ngoài kinh thành.

Dạ xoa nghe lời khuyên của Bồ Tát nên mang những vật báu đi theo sau Bồ Tát.

Nghe tin Bồ Tát trở về, đức vua ngự ra đón rước Bồ Tát. Sau đó vua cho phép dạ-xoa thường trú tại cổng thành, hằng ngày được hưởng mọi sự lợi lộc. Vua mời Bồ Tát về cung điện, tấn phong Bồ Tát địa vị quân sư, cung kính lắng nghe lời dạy bảo của Bồ Tát.

Bồ Tát phụng dưỡng mẹ già được đầy đủ, hưởng mọi sự an lạc cho đến mãn kiếp.

Vua trị vì đất nước bằng thiện pháp, sau khi băng hà, do thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời, hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/08/2016(Xem: 12766)
Thư mời tham dự Đại Trai đàn cầu siêu, giải oan bạt độ, Chẩn Tế âm linh, cô hồn tại nghĩa trang Oak Hill, San Jose Lễ Vu Lan 2016
01/08/2016(Xem: 5801)
Mỗi độ trung nguyên Mùa Vu Lan Thắng Hội hằng năm, đã trở thành Mùa Lễ Hội truyền thống không riêng Phật Giáo mà phổ cập rộng khắp dân tộc, quốc gia, liên quốc và thế giới, kể từ thời Đức Phật còn tại thế, xuyên qua 26 thế kỷ cho đến hôm nay. Người người con Phật hay không là con Phật, mỗi độ Vu Lan, không ai bảo ai, không ai nhắc ai, mà mọi người ai cũng chân thành khẩn thiết thành tâm hướng về mùa lễ hội thiêng liêng báo hiếu đền ơn tế độ.
30/07/2016(Xem: 12570)
Chiều nay tụng kinh Vu Lan - Lời kinh gió nhẹ lá vàng trước hiên- Mùa thu cũng đến rừng thiền- Mặc nhiên lá rụng về miền đất xưa.
30/07/2016(Xem: 10954)
Mùa Vu Lan có muôn ngàn loài hoa nở, mà đẹp nhất là hoa hồng. Bởi đó là màu của tình thương yêu và hiếu hạnh. Đóa hoa nói về sự hiếu hạnh của một vị Bồ Tát là đại đệ tử của Đức Phật - Bồ Tát Mục Kiền Liên. Sự hiếu hạnh đó đã được lưu truyền cho đến hôm nay và mai sau.
27/07/2016(Xem: 5677)
Từ nơi ấy chúng ta sinh ra. Từ nơi ấy, cha mẹ, ông bà chúng ta sinh ra. Nơi ấy, được gọi là quê cha (fatherland), là đất mẹ (motherland), là đất tổ, là tổ quốc, là quê hương (native land). Quê hương gắn liền với sinh mệnh, với dòng cảm thức và cảm xúc của chúng ta từ trong máu huyết.
26/07/2016(Xem: 13570)
Mùa Hiếu Vu Lan lại về - Hân hoan chào đón tràn trề yêu thương- Ân Cha Mẹ quả vô lường- Công lao trời biển tỏ tường lòng con
26/07/2016(Xem: 14179)
Vu Lan nhớ mẹ bao giờ - Dù bao cách biệt hai bờ đại dương- Mẹ là bài hát quê hương- Là đôi vai nhỏ chín thương sớm chiều-
22/07/2016(Xem: 8303)
Lễ Vu Lan khởi nguyên từ hạnh hiếu của Bồ Tát Mục Kiền Liên, đã trở thành mùa lễ đẹp nhất của nghĩa sống tình người với giá trị nhân văn sâu sắc. Lễ Vu Lan không những chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh mà còn giáo dục con cháu về lòng hiếu thảo đã vượt ra ngoài một lễ hội tôn giáo, trở thành một nền tảng đạo đức cao đẹp của xã hội. Đây là mùa Báo Hiếu, lễ hội của tình thương, của biết ơn, của báo ơn và đặc biệt là đối với cha mẹ, người luôn đi bên cạnh cuộc đời với trái tim thổn thức yêu thương.
19/07/2016(Xem: 5378)
“ Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất đi trì bình khất thực trong thành Vương Xá, khi ngang qua một khu vườn, trong vườn có người Bà La Môn làm vườn, tuy nghèo khó và tuổi đã cao, nhưng phải đổi lấy sức già để được có chút vật thực nuôi thân qua ngày, ông thấy Tôn giả ôm bát đi ngoài ranh vườn, liền đến thăm hỏi thân thiện, sau đó để vào bát một muỗng thực phẫm mà ông có được phần thọ dụng trong ngày, Tôn giả chứng minh và chú nguyện phước lành cho ông. Và rồi cũng từ đó thời gian đã biền biệt giữa Tôn giả và ông lão Bà la môn làm vườn.
21/04/2016(Xem: 18880)
Tôi đã đọc trên internet một bài viết rằng nhiều đọc giả nói tác giả của bài thơ “Mất Mẹ” được trích dẩn trong cuốn truyện rất nổi tiếng “Bông Hồng Cài Áo” là của chính tác giả Nhất Hạnh. Lại có bài viết rằng nhiều người đã nghe trong chương trình phát thanh cũng nói tác giả bài thơ “Mất Mẹ” là của Thích Nhất Hạnh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]