Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tình thương của Mẹ

23/08/201114:42(Xem: 4261)
Tình thương của Mẹ

 me_mum5

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ. Vừa rút ruột quằn quại sinh con, nghe tiếng khóc oa oa đầu đời của con, dù mệt bả người, mẹ vẫn cố cúi xuống, nằm ngoái nhìn con, đôi môi mềm nở nụ cười hạnh phúc, lòng mẹ dạt dào một niềm thương. Con vừa mới cắt cuống rốn, mới ráo khô nước nhờn nước ối là đã được bầu vú mẹ cho bú những giọt sữa non ngòn ngọt, tiếp sức cho con mở mắt nhìn đời.

Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành. Từng ngày từng đêm, bao năm bao tháng, biết bao nhiêu dịu ngọt, êm đềm tình thương mà mẹ đã cho con hưởng thụ. Vì thế, khi tình thương của mẹ được thăng hoa vào thi ca, bởi các nhà thơ, thì nó chuyển hiện thành bao nhiêu đường nét, hình tượng, âm giai cung bậc.

Với nhà thơ Phạm Như Vân, khi tình thương của mẹ rót vào lời ru, thì lời ru ngọt lịm vị phù sa:

Con đi tìm vị phù sa
Trong lời ru mẹ chảy qua tâm hồn
Tìm trong nỗi nhớ mỏi mòn
À ơi tiếng mẹ ru con dịu dàng.
(Phạm Như Vân – Men vị phù sa)

Có một nhà thơ, “nhất niên tam nguyệt phiêu bồng”, nhà thơ Tâm Nhiên, cứ chín tháng dạy học ở hải đảo Phú Quốc, đến dịp Tết và Hè, anh lại vào đất liền dong ruổi ba miền từ Nam chí Bắc, thăm anh em bạn thơ, thăm và lễ bái các bậc tôn túc, già lam, am viện… Ấy vậy, hình như Tâm Nhiên đã từng có diễm phúc, mở mắt ra thì đã “ngộ” được tình thương của mẹ:

Mẹ như tia sáng mặt trời
Khơi dòng máu chảy nồng hơi thở nầy
Mẹ là bóng lặng trăng soi
Xua tan u tối dặm dài con đi.

Mẹ sinh ra cõi tự do
Cho con chạy nhảy tha hồ dạo rong
(Tâm Nhiên – Mẹ ơi!)

Và phải chăng nhà thơ Huệ Thành Mang Viên Long cũng đồng cảm với Tâm Nhiên khi anh viết:

Trăng là mẹ, những mùa trăng là mẹ…
Không phút nào con có thể nguôi quên !
Bởi vì trăng đã sống mãi trong tim
Vầng trăng mẹ soi đời con tăm tối.
(Huệ Thành - Mang Viên Long – Trăng là mẹ)

Xin thưa, nói đồng cảm là chỉ nói đến nét phác thảo, khắc họa tương đồng của hai hình ảnh mẹ được tượng trưng. Nói sâu hơn thì vầng trăng tượng trưng trong thơ Mang Viên Long đã là vầng trăng linh thoại, vầng trăng cổ tích, vầng trăng điển tích… Vầng trăng Rằm tháng bảy đã tròn từ thuở đức Thích Tôn còn tại thế, vầng trăng đã tròn từ thuở Tôn giả Mục Kiền Liên thực hành hiếu hạnh:

Từ mùa trăng hai ngàn năm trăm năm trước….
Đến mùa trăng nầy xa cách biết bao
Nhưng trăng vẫn sáng. Vẫn dịu dàng đúng hẹn
Vẫn là mẹ yêu - con mãi hướng tâm về.

Từ mùa trăng thuở ấy, có mùa trăng Thắng Hội…
Có trăng Vu Lan cho con nhớ nguyện cầu
Cho ân nặng được báo đền muôn một
Cho lòng con và trăng mãi thâm sâu!
(Huệ Thành - Mang Viên Long)

Vâng, chính từ vầng trăng linh thoại, mùa trăng hiếu hạnh, ánh trăng tự tứ, trăng Phật hoan hỉ ấy chính là vầng trăng có động lực mầu nhiệm, khơi gợi cảm xúc, cảm hứng sáng tạo cho người nghệ sĩ; các thi nhân Phật tử được tắm tưới bởi suối nguồn ánh sáng tình thương và hiếu hạnh; thế nên cứ đến mùa Vu Lan là các tao nhân cảm xúc dạt dào tuôn chảy những vần thơ niêm ơn cha mẹ, nhớ nghĩa cù lao chín chữ… Những vần thơ ngọt ngào hương vị chuối ba hương, xôi nếp một, đường mía lau.

Lạ nhỉ? Nhà thơ Kim Hoa cũng từng khái quát, khái niệm hình tượng người mẹ, cũng bằng những sắc màu ánh sáng lung linh, rạng rỡ:

Mẹ như vạt nắng bình minh
Đem nguồn nhựa sống vẫn dành cho con
Sáng soi như mảnh trăng tròn
Hành trình mẹ vẫn… đầu non cuối ghềnh.
(Kim Hoa – Mẹ)

Bà mẹ của nhà thơ Vũ Đức Tô Châu thì cũng vậy. Đây hình ảnh khu vườn, căn nhà nơi quê hương; căn nhà ấy, khu vườn ấy không lẫn vào đâu được; nó là của Việt Nam, của bà mẹ quê hiền từ, giản dị, chất phác:

Nhà mẹ hàng cau vương mái tranh
Chiều mây khói bếp quyện xây thành
Dây trầu vàng lá rơi từng bữa
Gậy trúc lần theo dáng ngập ngừng
(Vũ Đức Tô Châu – Người mẹ của tôi)

Nơi căn nhà ấy, khung cảnh vườn quê ấy, bao giờ cũng tồn tại một hình ảnh chân thực, mộc mạc, tự ngàn xưa có thế cho đến cả ngàn sau: một bà mẹ hiền dõi mắt trông con những buổi chiều lên, đêm xuống mỗi khi con đi xa:

Người mẹ của tôi tóc trắng ngần
Lệ mờ đôi mắt đã bao năm
Rưng rưng giọt nhớ thời tan vỡ
Thương đứa con đi bởi cuộc trần.

Các chị có chồng xa xứ hết
May nhờ chị lớn – cũng ven sông!
Cảnh tình mẹ khổ con thương quá
Ai hiểu cơ trời quê bão giông.
(Vũ Đức Tô Châu – Người mẹ của tôi)

Tình thương mẹ dành cho con bao la như biển Thái Bình, mênh mông như trời với đất, dạt dào như suối như sông, ngân nga đủ cung bậc ngũ âm xàng xê liu cống, ạ ời, ầu ơ… nhập vào giai điệu hát ru lan tỏa khắp cả ba miền non nước. Thế nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy nhà thơ Từ Xuân Lãnh biểu hiện cảm xúc, hoài niệm tri ân hiền mẫu qua bài thơ mang tên “Lời ru”.

Từ con vừa mới chào đời
Mẹ ru con tiếng “à ơi”… ngọt ngào
Giọt tình nhỏ xuống ca dao
Giọt thương đọng lại lắng vào hồn quê

Một dòng lục bát đi về
Mênh mang điệu hát câu thề nước non
Lời ru rót xuống đời con
Xanh trang cổ tích ngọt nguồn quê hương
(Từ Xuân Lãnh – Lời ru)

Mẹ đã phổ tình thương con vào cung bậc lời ru, nên bao nhiêu giọt tình, giọt thương của mẹ chao theo tao nôi nhịp võng mà nhuận thấm đời con. Và hơn thế nữa tình thương ấy lắng đọng lại thành hồn quê hồn nước. “Giọt thương đọng lại lắng vào hồn quê”. Và cũng chính vì thế, tình thương của mẹ dãi dầu bốn ngàn năm văn hiến đã sinh thành nên triệu triệu người con “trung quân, ái quốc”; thương nước, thương dân:

Lời ru rót xuống đời con
Xanh trang cố tích, ngọt nguồn quê hương.
(Từ Xuân Lãnh)

Cảm thụ sâu lắng thâm trầm lời hát ru của mẹ, nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã thấy trong lời hát ru của mẹ có tầng sâu triết học ngôn ngữ, ngôn ngữ tình yêu:

Trong đôi mắt bóng in vầng trăng chảy
Vào tận cùng ngôn ngữ của bao dung
Mẹ ru con bằng lời ru vô tận
Lời núi non… lời cây cỏ khắp phô.

Ôi ! Bàn tay Mẹ, như thảo nguyên hùng vĩ
Ẩm vầng trăng trìu mến chạm hoàng hôn
Vì trong mẹ thức dậy tình hoan hỉ
Dành cho con dù nông nổi sống mòn…
(Nguyễn Thánh Ngã – Người mẹ dòng sông)

Lời ru của mẹ trầm lắng ngân nga giữa núi non cỏ cây sông nước. Sức mạnh kỳ vĩ ấy dư năng lực, thừa trữ lượng để chan rưới mưa móc ân tình cho cả đất trời đang đại hạn, cho cả khát bỏng đời con. Tình thương mầu nhiệm nhập vào bàn tay thì bàn tay thành “thảo nguyên hùng vĩ” đủ sức mạnh, thừa năng lực để “Ẵm vầng trăng trìu mến chạm hoàng hôn”. Vì bao giờ cũng vậy, muôn thuở vẫn như là, như thị:

Vì trong mẹ thức dậy tình hoan hỉ
Dành cho con dù nông nỗi sống mòn.
(Nguyễn Thánh Ngã)

Dù con hư đốn đến hoang đàng, dù con khổ đau tuyệt vọng mẹ luôn đem và lấy tình thương nâng đỡ, uốn nắn, dắt dìu; ít khi mẹ giận hờn trách cứ. Bản thân tình thương mẹ là tất cả cho con.

Ý thức được chân lý hiển nhiên ấy, thế nên dòng cảm xúc thơ Vu Lan trong lòng người thi nhân Phật tử luôn dạt dào tuôn chảy, tràn trào nên những câu thơ, những bài thơ mượt mà, chân thành và lâng lâng cảm xúc ngọt ngào:

Ngày Vu Lan báo hiếu
Con tặng mẹ gối hoa
Con của mẹ hiền hòa
Lo gần xa chu đáo.
Như là con chim sáo
Đã vỗ cánh sang sông
Các con vẫn hướng lòng
Chăm sóc thương yêu mẹ
Mong mẹ cha mạnh khỏe
Nào thuốc sữa, bánh trà
Còn nhớ cả gối hoa
Vỗ về từng giấc ngủ.
Đôi gối mềm lông vũ
Cả tấm lòng con đây
Mẹ ru giấc nồng say
Thấm tình con thơm thảo
(Bích Bửu – Nét đẹp tâm hồn Việt Nam)

Đó là con đã biết thương mẹ, hạnh phúc thay cho những bà mẹ, từng ngày đang ăn đang thở hồn nhiên, an lạc, vui sống, lại được thấy con mình hiếu thảo, đang thể hiện những việc làm cụ thể thiết thực báo ân, báo hiếu.

Với nhà thơ Liên Thao, dù đã là người thiên cổ, nhưng cứ mỗi Vu Lan về, bạn đọc quý thơ anh, nhớ đến anh, tự thấy còn văng vẳng đâu đó những câu hát anh “Ru mẹ”

Con ru giấc ngủ Tiên Rồng
Lá vàng ngõ trúc, bụi hồng dặm sương
Tiếng thơ khắc khoải đoạn trường
Tiếng thương nức nở trùng dương đôi bờ
(Liên Thao – Con ru mẹ ngủ giấc tròn)

Những câu thơ khúc hát Vu Lan thấm đẫm tình thương mật ngọt. Dù mẹ còn trẻ, hay mẹ đã già, dù mẹ đang thanh xuân hay đã đường xa vạn dặm thì mỗi mỗi Vu Lan, mỗi khi con lắng lòng nghĩ tới liền có mẹ nơi con, liền có con nơi mẹ. Có tình yêu bao la giữa mẹ với con nên có bầu khí hậu tình thương bao trùm cả vũ trụ đất trời. Hạnh phúc thay Vu Lan. Đẹp biết bao hình tượng và tình thương của đấng Mẹ hiền.■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 75

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 5174)
Từ ngàn xưa cho đến hôm nay, đã có rất nhiều, và rất nhiều cảm niệm về Mẹ. Mẹ, chỉ có một ý niệm này thôi mà đã thôi thúc bao áng văn hay, trác tuyệt diễm lệ để diễn tả về Người; và, cảm nhận của chúng ta về Mẹ thì dường như bất tận. Sao lại không bất tận? Tình Mẹ đối với con đâu có ý nghĩa về không gian và thời gian, bầu sữa Mẹ có thể dứt nhưng tình thương của Mẹ không bao giờ chấm dứt.
10/04/2013(Xem: 4809)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4592)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5988)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 5080)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4768)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4820)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4455)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5283)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5537)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]