Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người xuất gia có làm tròn chữ hiếu không

13/08/201113:43(Xem: 5460)
Người xuất gia có làm tròn chữ hiếu không
chu-hieu
NGƯỜI XUẤT GIA

CÓ LÀM TRÒN CHỮ HIẾU KHÔNG
Tỳ Kheo Nguyên Các

LTS: Thời gian trước, một số vị phật tử lớn tuổi, am hiểu cổ học, đưa ra ý kiến nói rằng, người xuất gia không hoặc khó làm đầy đủ câu hiếu để đối với song đường (bố mẹ). Vậy điều đó đúng không? Nếu đúng, thì hàng đệ tử xuất gia của đức Phật có đủ tư cách làm người hướng đạo cho cư sỹ tại gia cũng như mọi giới chăng? Nếu nhận thức trên của các phật tử là chưa thấu đáo, nguyên nhân do đâu?

Có lẽ không ý người cũng có suy nghĩ như thế, hoặc giả thắc mắc trong lòng, quý Thầy trả hiếu bậc sanh thành như thế nào? Việc giáo dục hiếu thuận với cha mẹ của Phật giáo được ghi lại rất nhiều trong kinh, luật Bắc truyền (đại thừa) cũng như Nam truyền (tiểu thừa) như: kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán, Phật dạy: “lòng từ của cha, tình thương của mẹ, nếu Ta trụ thế trong một kiếp[1] cũng không nói hết được” (父有慈恩,母有悲恩 , 母 悲 恩 者 , 若 我 住 世 於 一 劫 中 說 不 能 盡). Nghĩa mẹ tình cha lớn lao như thế nên, “trong trọn một kiếp, mỗi ngày ba lần cắt thịt của mình phụng dưỡng mẹ cha, cũng không báo đáp được ân ấy một ngày ”(經於一劫,每日三時割自身肉以養父母,而未能報一日之恩). “Vì thế cho nên, các ông phải tinh cần tu tập, hiếu dưỡng cha mẹ, như người cúng dường Phật, phúc báo không khác, nên cứ như thế mà báo ân cha mẹ”(是故汝等勤加修習孝養父母,若人供佛福等無異,應當如是報父母恩).

Chỉ qua ba câu trong kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán quyển 3,[2] đoạn đức Phật dạy cho năm trăm vị trưởng giả tại thành Vương Xá về bốn ân (ân cha mẹ, ân chúng sanh, ân quốc gia và ân Tam bảo), chúng ta thấy ân đức cha mẹ thật khôn lường, dù lấy thân mình cúng dường trọn kiếp cũng khó đáp đền, và Phật dạy chúng ta phải như thế mà báo ân. Vậy, người xuất gia học Phật há lại không y lời ấy hành trì. Thế nhưng, thực phẩm, y phục .v.v. của hàng xuất gia đều là do sự cúng dàng của phật tử tại gia, nếu dùng chúng để phụng dưỡng cha mẹ có được không? Điều này trong luật Ngũ Phần quyển 20 có ghi: thời đức Phật có một vị A La Hán tên Tất Lăng Già Bà Sa (畢陵伽婆蹉), cha mẹ Ngài nghèo khó, Ngài muốn đem một phần y phục vật phẩm khất thực được để cha mẹ dùng, nhưng lại sợ không được phép, nên xin đức Phật chỉ dạy. Phật liền tập hợp chúng đệ tử lại và dạy rằng: “nếu có người vai phải gánh cha, vai trái gánh mẹ như thế trăm năm; dùng y phục thực phẩm tốt nhất cúng dàng, cũng không thể báo đáp hết ơn cha mẹ. Nên từ nay, cho phép hàng tỳ kheo hết lòng hiếu dưỡng mẹ cha; ai không cúng dàng thì phạm giới” (若人百年之中,右肩擔父,左肩擔母,於上大小便利;極世珍奇衣食供養,猶不能報須臾之恩。從今聽諸比丘盡心盡壽供養父母;若不供養得重)[3]. Và, việc dùng vật phẩm hiếu dưỡng song thân được dạy rất rõ ràng, trong luật của Nhất Thiết Hữu bộ quyển 4: “Người xuất đối với cha mẹ vẫn phải cung cấp tiện nghi sống, nhưng không biết làm thế nào cho hợp. Phật dạy: các vật mà bản thân dùng còn, có thể cúng cha mẹ. Nếu không còn dư, có thể tùy lúc nhận nơi thí chủ, hoặc có thể dùng những phẩm vật khi được chia quân Tăng…”.[4]

Vậy là đã rõ, không còn nghi ngờ gì trong việc người xuất gia vẫn có thể hiếu dưỡng cha mẹ, và dùng cách nào để phụng dưỡng. Ngoài ra, cũng nội dung dạy về việc cho phép hàng tỳ kheo, đệ tử xuất gia của đức Phật, cung cấp thực phẩm, y phục cho cha mẹ, nếu chúng ta đọc nhiều kinh luật một chút, tìm hiểu cặn kẽ, đều có thể thấy ý ấy trong: Tăng Nhất A Hàm quyển 11, Thiện Tri Thức Phẩm; kinh Trung A Hàm quyển 12, phẩm Vương Tương Ưng; hay Tạp A Hàm kinh quyển 4…

Đức Phật dạy đối với cha mẹ, nếu chỉ hiếu dưỡng, tức lo cho cha mẹ được no ấm, tương đối đầy đủ về chất không chưa đủ. Mà phải tiến hơn một bậc, biết hướng cho cha mẹ làm các điều lành, lánh những nghiệp dữ, dần dần tu hạnh giải thoát để ra khỏi sanh tử luân hồi, ấy mới là điều khó.

Bản thân đức Thích Ca Mâu Ni, sau khi thành chánh giác, đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp độ thân mẫu và chư thiên cõi ấy; kết quả là rất nhiều vị chứng được Tứ quả (dự lưu, tư đà hàm, a na hàm và a la hán), trong đó có hoàng hậu Maya. Thuyết này được ghi trong kinh Ma Ha Ma Ya (摩訶摩耶經) hay còn gọi Phật Thăng Đao Lợi Thiên Vi Mẫu Thuyết Pháp kinh (佛昇忉利天為母說法).[5] Ngoài ra, trong kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán…cũng có nói đến. Như vậy, bên cạnh cung phụng cha mẹ các nhu yếu phẩm trong cuộc sống, hàng đệ tử Phật còn dùng pháp giải thoát độ cha mẹ xa lìa nẻo ác, sống đời an lành, chết sanh lạc cảnh.

Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha. Vì thế, hiếu dưỡng cha mẹ hiện đời, đồng thời cũng phải cứu độ cha mẹ trong quá khứ và vị lai. Cho nên, trong cách nhìn của Bồ tát thì tất cả nam nhân đều là cha, phàm là người nữ tức mẹ mình. (kinh Phạm Võng). Đã là cha mẹ, thì chúng ta phải hiếu thuận. Tới đây chúng ta có thể nói rằng, nếu làm như những gì nêu và phân tích ở trên, thì người đệ tử xuất gia của đức Phật trong việc báo đáp thâm ân cha mẹ, không những làm tốt mà còn có phần hơn người. Mà muốn độ được cha mẹ nhiều đời thì phải đắc thành Phật đạo, điều này không dễ. Trong Đại Phương Tiện Phật Báo Ân kinh quyển 1 nói: “Vì hiếu dưỡng cha mẹ, biết ân và báo ân, mà đời này mau đắc thành trí tuệ giải thoát”( 為 孝 養 父 母 , 知 恩 報恩 故 , 今 得 速 成 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩提).[6] Như vậy, việc xuất gia tu hành một phần cũng là để báo ơn cha mẹ, chứ không phải chẳng liên quan gì.

Quay lại ý kiến của các vị am hiểu cổ học, có lẽ do quý phật tử ấy được giáo dục theo truyền thống Nho học, nên dưới quan niệm thiên về gia tộc, tư tưởng tông pháp nên mới cho rằng, người xuất gia không làm trọn hiếu đạo, hay nói cách khác là bất hiếu, vì không lập gia đình để có thế hệ kế gia thừa nghiệp ông bà. Đó là một trong những tư tưởng chủ đạo về hiếu trong sách Mạnh Tử của Nho giáo. Sách viết: “不孝有三 , 無後為大”, ba điều sau gọi là bất hiếu: 1. Nghe lời một cách mù quáng, khiến cha mẹ đến chỗ bất nghĩa; 2. Nhà nghèo cha mẹ thì già yếu, không ra làm việc (quan) để nuôi cha mẹ; 3. Không có con trai để nối dõi. Trong ba điều đó, không có người nối dõi tông đường là tội bất hiếu lớn nhất. Có lẽ vì tư tưởng này mà một số vị theo cổ học cho rằng hàng xuất gia không tròn chữ hiếu. Mà nếu phân tích đến dây, quý vị vẫn cứ đứng trên quan niệm này mà đánh giá, thì cũng chẳng còn gì để bàn luận. Chỉ nói thêm, chính vì tư tưởng Vô Hậu Vi Đại, mà ngày nay xã hội Trung Quốc (nơi Nho học hình thành và phát triển) đang gặp phải vấn đề rất lớn do tỉ lệ nam nữ quá chênh lệch. Ngoài ra, ngày nay, sau khi kết hôn có con, lúc này chỉ chăm lo nuôi dưỡng con mình, rất ít người phụng dưỡng cha mẹ đẻ, chứ chưa nói đến nuôi dưỡng thêm cha mẹ của vợ hoặc chồng. Vậy, có con đã thật sự là có hiếu chưa? Cứ như thế đời này qua đời khác, chỉ lo nuôi dạy con cái mà quên phụng dưỡng cha mẹ, vậy, hiếu đạo có tròn không?

Hàng đệ tử Phật lại còn được dạy, pháp cứu cha mẹ ra khỏi đường ngạ quỷ, hay cảnh khổ do các nghiệp ác đã tạo tác trong quá khứ và hiện tại. Pháp này tên gọi Vu Lan Bồn. Đức Phật dạy rằng, muốn cứu cha mẹ thoát thọ quả khổ, phải nhờ thần lực của mười phương Tăng thanh tịnh; nên vào cuối mùa an cư của chư Tăng, sắm sanh lễ vật trai nghi dâng lên cúng dường. Vì sau ba tháng an tịnh tu trì, giới định tuệ tăng trưởng, lúc ấy, chư Tăng dùng định tâm vận lòng từ, cảm ứng được thế giới của người chết. Người quá vãng cảm nhận được cái năng lực đó, phát tâm lành, sanh thiện ý, mới mong thoát khỏi u đồ. Đó là cách đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi cảnh quỷ đói. Pháp Vu Lan Bồn từ đó được lưu truyền, đến ngày nay chúng ta có mùa Vu Lan tháng bảy (AL).

Dù đã có pháp Vu Lan Bồn, thế nhưng tốt hơn hết, chúng ta nên hướng cha mẹ hiện đời quy kính Tam bảo, giữ năm giới và hành thập thiện. Tức là: 1. không sát sanh; 2. không trộm cắp, hay nói “Không lấy đồ vật người không cho”; 3. không tà dâm; 4. không nói dối; 6. không nói thêu dệt; 7. không nói hai chiều; 8. không nói xấu người, không nói lời ác hại; 9. không tham lam; 10. không ôm ấp những ý niệm, kiến giải sai lầm. Vì đó là gieo cái nhân lành để sau khi trả báo thân này, lại được làm người hay sanh lên cõi trời. Thiết nghĩ đó mới là cách báo hiếu tốt nhất.

Vậy, người xuất gia học Phật, theo lời Phật dạy, y luật phụng hành làm tròn hiếu đạo. Phụng dưỡng, chăm sóc mẹ cha về mặt vật chất đủ đầy. Hơn nữa, còn đem công đức tu hành hồi hướng đến cha mẹ nhiều đời, dẫn dắt mẹ cha hiện thế xa đường ác, làm việc lành, sống an lành trong chánh pháp của Như lai, khi mãn phần có thể được sanh về cõi tịnh.

Vĩnh Nghiêm, tháng 6 năm 2011.

[1] Kiếp : gốc tiếng Phạm Kalpa (1 kiếp) có hai thuyết, một cho là 243.000.000 năm; thuyết khác nói là 4.320.000 năm.

[2] Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (ĐTK), q.3, p.297.

[3] ĐTK, q.22, p.140.

[4] ĐTK, q.24, p.428.

[5] ĐTK, q.12, p.1011. hoặc bản tiếng việt tại: http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-phat-codam/pcodam-11.htm

[6] ĐTK, q.03, p.127

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4755)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4506)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5915)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 5006)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4671)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4743)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4354)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5187)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5417)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4495)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]