Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dâng hoa "Lương Hoàng Bảo Sám" trong mùa Vu Lan

04/08/201105:38(Xem: 6582)
Dâng hoa "Lương Hoàng Bảo Sám" trong mùa Vu Lan
vulan
DÂNG HOA "LƯƠNG HOÀNG BẢO SÁM"
TRONG MÙA VU LAN

Thích Nữ Giới Hương

Lá bắt đầu rơi. Trời heo hút gió mây. Thời gian đang vận hành theo vòng quanh của vũ trụ để chuyển mang một mùa Vu lan nữa lại đến.

Vâng! MùaVu Lan Báo Hiếu năm 2011, Phật lịch 2555đang đến. Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ quá vãng như Tôn giả Mục Kiền Liên đã thực thi trong kinh Phụ Mẫu Báo Trọng Ân. Năm nay, chúng ta có thể tô điểm thêm trong vườn Tâm Hiếu của người con Phật bằng cách “Dâng Hoa Lương Hoàng Bảo Sám” trong mùa Vu Lan báo hiếu này.

Lương Hoàng Bảo Sám còn gọi là Từ Bi Đạo Tràng Lương Hoàng Sám Pháp, là một phương pháp sám hối rất hữu hiệu và nhẹ nhàng để chuyển hóa những tâm niệm sai lầm thành trong sáng, thanh cao và đề cao tâm nguyện mình và người cùng làm bồ đề quyến thuộc với nhau, chứ không mệt mõi nhàm chán hay bi quan. Đây là một phong cách nhìn rất hướng thiện. Bên cạnh đó, Lương Hoàng Bảo Sám cũng là một phương cách giúp chúng ta đền trả tứ ân, đặc biệt ân Cha mẹ - Bậc sanh thành và dưỡng dục nên thân thể tứ đại của chúng ta.

Cũng như Kinh Phụ Mẫu Báo Trọng Ân đã trình bày cho chúng ta biết công ơn to lớn của cha mẹ, đặt biệt mẹ đã chín tháng cưu mang, ba năm bú bẩm; Lương Hoàng Bảo Sám cũng dạy cho chúng ta biết niệm tâm ân cha mẹ như sau:

Phải tưởng niệm ân đức dưỡng dục của cha mẹ trong việc sinh dưỡng thật sâu và nặng.
Chỉ có cha mẹ mới tự lãnh nguy hiểm, để phần yên ổn cho con.
Lớn lên thì huấn luyện tâm tánh nhân từ và tư cách lễ độ. Tha thiết cầu thầy dạy bảo để mong con thông suốt nghĩa lý sách vở của thánh hiền cũng là cha mẹ.
Chỉ có Cha mẹ mới kỳ vọng từng giờ từng phút, mong con bằng người. Sự cung cấp thì gia bảo cũng không tiếc đối với con.
Thậm chí lo cho con và nghĩ về con quá độ mà cha mẹ đã thành bịnh. Và dầu nằm không xuống, vẫn miên man nghĩ đến con.
Ân cha mẹ, thế gian này thật không có cái thứ hai. Nên Đức Phật đã nói, thiên hạ không có cái ơn nào hơn cha mẹ. Người xuất gia chưa đắc đạo thì phải nỗ lực vào sự tu học, làm lành không nghỉ, tích đức không ngừng, quyết chí báo bổ cho được cái ơn cù lao dưỡng dục này
” (Lương Hoàng Bảo Sám, Hòa Thượng Thích Trí Quang dịch, Phật Lịch 2553, Ấn Tống, trang 419- 421).

Thật vậy, không có ngôn từ nào diễn tả hết những tinh thần và vật chất mà cha mẹ đã cho chúng ta. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta nuôi cha mẹ hay cho cha mẹ vài đồng thì tính tháng tính ngày, kể công nhiều ít. Trong khi tấm lòng của cha mẹ đối với chúng ta thật như trời biển bao la, nói sao cho cùng. Nếu cha mẹ còn tại tiền thì chúng ta còn có cơ hội để đáp trả. Nếu không may cha mẹ đã qua đời thì thật là tiếc nuối. Trong kinh, Đức Phật đã dạy rất nhiều cách để đền ơn cha mẹ như chúng ta thân cận phụng dưỡng, hồi hướng phước tuệ mà chúng ta đã gieo đến cha mẹ hay hướng dẫn cha mẹ quy y Tam bảo quy về nẽo thiện. Trong Lương Hoàng Bảo Sám hướng dẫn chúng ta thay vì cha mẹ, bà con quyến thuộc trong hiện đời hay quá vãng mà đãnh lễ Chư Phật và bồ tát trong mười phương, nguyện nương sức tha lực nhiệm mầu này mà cha mẹ và thân quyến có thể chuyển hóa đau khổ thành giải thoát an lạc như sau:

Đại chúng hãy cùng nhau đồng một nỗi thống thiết, gieo xuống đất tất cả năm bộ phận của thân thể, phụng vì tất cả cha mẹ bà con và thân thuộc của cha mẹ, bà con từ vô thủy đến giờ, quy y và đảnh lễ các đấng Đại Từ Bi Phụ của thế gian “Nam Mô Di Lặc Phật… Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát”.

“Đệ tử chúng con chí thành quy y và đảnh lễ hết thảy Tam Bảo khắp cả mười phương, cùng tận hư không giới, nguyện xin Tam bảo đem năng lực từ bi mà đồng gia nhiếp thọ, làm cho cha mẹ bà con và thân thuộc của cha mẹ, bà con của chúng con, từ nay sắp đi cho đến ngày giác ngộ, được diệt sạch tội chướng, hết sạch thống khổ, lọc sạch phiền não, trường từ ác đạo mà tự tại vãng sanh, đích thân phụng sự chư Phật mà đối diện nhận lãnh sự quyết đoán của các ngài về sự thành Phật của mình, tứ đẳng và lục độ không rời hành vi, tứ biện và lục thông hết cả chướng ngại, thực hiện mười trí lực của Phật nên trang nghiêm thân thể bằng hết thảy tướng tốt và tướng phụ, cùng ngồi đạo tràng, cùng thành chánh giác” (trang 421-423).

Chẳng những đối với cha mẹ hiện đời quá vãng, mà cả cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp trong vòng lai sanh vô thủy vô chung mà chúng ta đã từng thọ ân thì hôm nay chúng ta cũng vì các đấng sanh thành ấy mà năm vóc tha thiết đảnh lễ các bậc Đại Từ Bi Phụ trên thế gian mà sám hối và phát nguyện rằng:

Hôm nay, tất cả đại chúng cùng sám hối trong đạo tràng này, nếu ai bị cha mẹ mất sớm, côi cút từ nhỏ, thì chỉ tưởng niệm không mà thôi, không thể gặp lại được. Vì lẽ thần thông không có, thiên nhãn cũng không, không làm sao biết được cha mẹ hết quả báo nhân gian này rồi đã phải thác sanh vào đường nẻo nào. Vậy chỉ còn một cách là nỗ lực làm phước mà truy báo. Làm phước không ngừng thì hiệu quả quyết chắc đạt được. Nên trong kinh có nói, làm phước cho người quá cố cũng như tiếp tế cho người đi xa: Nếu được làm người, làm trời thì tăng thêm phước báo; nếu bị sanh ba vào ác đạo hay tám tai nạn thì tức khắc vĩnh viễn thoát khỏi những thống khổ này, sanh gặp Phật thì nghe chánh pháp là đốn ngộ liền, khiến cha mẹ nhiều kiếp và bà con nhiều đời giải trừ lo sợ và đồng đều giải thoát, nên đó là cách trả ơn tối thượng chí từ chí hiếu của những người có trí.Đại chúng hãy hoài niệm một cách chân thành thống thiết, gieo xuống đất tất cả năm bộ phận của cơ thể, phụng vì cha mẹ quá khứ và bà con xa xưa mà quy y và đảnh lễ các đấng Đại Từ Bi Phụ của các thế gian: “Nam Mô Di Lặc Phật… Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát”.

“Đệ tử chúng con chí thành quy y và đảnh lễ hết thảy Tam bảo khắp cả mười phương, cùng tận hư không giới, nguyện xin Tam bảo đem năng lực từ bi mà nhiếp thọ và cứu vớt, làm cho cha mẹ quá khứ và bà con nhiều đời của chúng con, từ nay sắp đi cho đến ngày giác ngộ, diệt hết tội lỗi, thoát hết tội báo và sạch hết phiền não, triệt hạ ba thứ chướng ngại và loại trừ năm thứ sợ hãi, làm hạnh bồ tát để cảm hóa tất cả, dùng tám giải thoát mà tẩy sạch tâm trí và đem bốn đại nguyện mà tiếp độ muôn loài, trực tiếp nhìn thấy dung nhan từ bi của Phật và trực tiếp lãnh nhận, chánh pháp vi diệu của ngài, không đứng dậy khỏi chỗ ngồi mà sạch hết tất cả phiền não, tùy ý du hành hết thảy quốc độ, hạnh nguyện sớm viên mãn để sớm bước lên tuệ giác vô thượng” (trang 423-427).

Cuối lời, nguyện xin Tam bảo chứng minh cầu cho cha mẹ, bà con quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta chuyển hóa mối dây ái luyến ràng buộc chằng chịt của mười hai loài trong sáu nẻo luân hồi, thành mối quan hệ chân thiện mỹ “Bồ tát làm bạn lữ”, đời đời làm thiện hữu tri thức nhắc nhở nhau đến ngày cùng thành chánh giác, lợi lạc hữu tình.

Nguyện từ đây sắp đi cho đến ngày giác ngộ, từ biệt tam đồ, đoạn tuyệt tứ sanh, hòa đồng với nhau như nước với sữa, vô ngại với nhau in như không gian, vĩnh viễn làm thân thuộc chánh pháp cho nhau, làm bà con từ bi với nhau, cùng nhau tu tập vô lượng giác tuệ, thành tựu đầy đủ kho tàng công đức, dũng mãnh tinh tiến không ngừng không nghỉ, làm bồ tát hạnh không chán không mệt, đồng đẳng tâm chư Phật, đồng đẳng nguyện chư Phật, được ba thứ bí mật của Phật Đà, chứng pháp thân đầy đủ năm phần, thực hiện tuệ giác vô thượng thành bậc Chánh Biến Tri” (trang 275).

“Nguyện xin Tam bảo đem nước đại bi mà rửa sạch tội lỗi nhơ bẩn cho hết thảy chúng sanh hiện chịu khổ trong A-tì địa ngục và tất cả các địa ngục khác, làm cho họ thân tâm thanh tịnh; rửa sạch tội lỗi nhơ bẩn cho chúng con cùng sám hối trong đạo tràng hôm nay, cùng cha mẹ, sư trưởng và thân quyến của chúng con, làm cho thân tâm thanh tịnh tất cả” (trang 242).

Tóm lại, niệm thâm ân cha mẹ, thay thế cha mẹ mà trì tụng Lương Hoàng Bảo Sám, thay cha mẹ mà sám hối, quy y, đãnh lễ, và phát nguyện hướng về Bồ đề tâm, để cha mẹ vĩnh viễn thoát khổ trong sáu cõi mà sanh về cõi thiện. Đó là hiệu quả của sức cảm ứng khó nghĩ bàn vận hành từ tâm lực hiếu hạnh của chúng ta “Nhất thiết duy tâm tạo”.

Đó là những đóa hoa mang đậm nét hiếu thảo mà Lương Hoàng Bảo Sám đã hiến tặng cho chúng ta. Đó là cách trả ơn tối thượng chí từ, chí hiếu của những người con hiếu thảo trong những mùa Vu Lan sắp về.

Nhân gian sẽ đẹp biết bao từ những hạt giống tưới tẩm hiếu thảo này.

Xin hãy cùng nhau gieo trồng!

Mùa Thu tại Chùa Hương Sen, ngày 15 tháng 07 năm 2011

Thích Nữ Giới Hương

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4558)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4304)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5708)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 4830)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4488)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4641)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4222)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5116)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5343)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4416)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]