Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công Cha Nghĩa Mẹ

14/08/201108:47(Xem: 4925)
Công Cha Nghĩa Mẹ
cha-me-02

CÔNG CHA NGHĨA MẸ
Tỳ kheo Nguyên Các


“Cha” và “mẹ” (hoặc “ba, má” hay “bố, mẹ” ) thường là các từ đơn đầu tiên mà chúng ta bặp bẹ nói được. Điều đó có lẽ là đương nhiên, vì người dạy cho chúng ta những tiếng đầu tiên thiêng liêng ấy, đâu ai khác ngoài Cha Mẹ chúng ta. Những âm đầu tiên đó, chúng ta phát ra đâu được tròn trịa là “bố” “mẹ” đâu, mà chỉ là những chuỗi âm tương tự mà thôi. Và, dù là chẳng biết mình phát ra những âm gì, ý nghĩ thế nào, nhưng sau khi lặp lại xong thì cười rất vui, rất sung sướng…Rồi cứ thế, “bố, mẹ” theo ta trong mọi hoàn cảnh sống. Hai tiếng ấy quá gần gũi, quá thân thương, để rồi chúng ta cảm nhận đó như điều tự nhiên, thậm chí đôi khi quên đi sự tồn tại ấy.

Từ thuở ấu thơ, khi bị té ngã, hay bị chúng bạn trêu chọc, người mà chúng ta liền gọi hoặc méc (mách) không ai khác ngoài Cha Mẹ của chúng ta. Và, Cha Mẹ luôn ở vị trí số một trong lòng ta, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Như thế, dù chưa hiểu biết nhiều, nhận thức còn chưa được là bao, nhưng lúc ấy chúng ta đã ý thức được Cha Mẹ là người có thể bảo bọc, chở che chúng ta. Hay nói cách khác, với trẻ thơ, Cha Mẹ là cả bầu trời. Đúng thật như thế, Cha Mẹ có thể vì chúng ta mà làm tất cả, quản gì khó nhọc hy sinh. Rồi chúng ta dần lớn lên trong tình yêu thương không bờ bến ấy. Mặc thời gian không ngừng trôi, không gian có đổi dời, và chúng ta có thế nào đi nữa, thì tình thương của Mẹ Cha vẫn mãi tràn đầy…

Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận, là niền vui nỗi buồn, là cả cuộc đời của Mẹ của Cha.

Từ lúc chúng ta hình thành trong bụng Mẹ, là chuỗi ngày Cha Mẹ đứng ngồi không yên. Phần vì hạnh phúc lớn lao khi được làm Cha Mẹ; phần vì lo lắng mọi bề… Suốt chín tháng giữ gìn thai giáo, việc uống ăn đi đứng Mẹ nào được như ý; Cha thì chăm mẹ chăm “con”, mong cho đến lúc vuông tròn cả hai. Rồi đến thời lâm bồn Mẹ khổ, chịu đau đớn trăm phần mê mỏi, thậm chí tính mạng Mẹ có thể gặp nguy; Cha thời xót vợ thương con, nhưng trong cảnh chẳng thể giúp gì được, cảm giác “bất lực” ấy cũng đau không kém. Đau đớn là thế, nhưng khi nghe được mẹ con đều khỏe mạnh, thì bao sự đau sự khổ liền đều biến tan, thay vào đó là niềm hạnh phúc vui sướng khôn tả rõ. Đó chính là sức mạnh của tình yêu thương, là tấm lòng của bậc làm cha mẹ.

Cùng với niềm vui sướng hạnh phúc khi con cất tiếng khóc chào đời, cũng là lúc Cha Mẹ bắt đầu những tháng ngày vất vả nuôi con. Vì cho con ăn no mặc ấm, dẫu mình mang nghiệp cũng cam. Miễn con ăn học nên người, thức khuya dậy sớm Cha thời xá chi. Để con có cuộc thanh nhàn, Mẹ thân phụ nữ chẳng màng chuốt chau… Sự hy sinh ấy, ngoài Cha Mẹ chúng ta ra ai làm được? Thế nên trong kinh Báo Đáp Công Ơi Cha Mẹ có dạy: “Ơi cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn”. Thái Sơn to lớn thế nào không cần rõ, nhưng chúng ta phải biết là, vì con cái mà Cha Mẹ ta hy sinh tất cả, điều đó lớn lao cao cả chừng nào? Biết được điều đó, dù trong cuộc sống có bất kỳ biến cố nào, chúng ta cũng không bao giờ quên nghĩa Mẹ công Cha.

Khi chúng ta cắp sách đến trường, chữ a, b, c Cha Mẹ cùng ta học. Con điểm mười Cha Mẹ còn vui hơn. Bao vất vả bộn bề cuộc sống, cũng chẳng bằng con Cha Mẹ giỏi ngoan (con ngoan trò giỏi). Có sá gì nắng sớm mưa chiều, quản ngại chi vai gầy gánh nặng; miễn cho con được như bạn bằng bè. Rồi đến lúc con vào đời lập nghiệp, cũng không ngừng dõi theo bước con đi. Con thành công Cha Mẹ - người vui nhất; lỡ vấp ngã trên đường đời trắc trở, nơi con về nương tựa chỉ có Mẹ và Cha. Dẫu vui buồn tranh đua nơi thế cuộc, Cha Mẹ già vẫn xót dạ thương con... Nhưng thế gian cũng lắm hạng người, dù làm Cha Mẹ con thơ chẳng màng. Những người như thế nghiệp mang, sống trong “địa ngục”, thác sanh tam đồ[1]. Còn trên bình diện rộng chung, công Cha nghĩa Mẹ non xanh khó bằng.

Ấy thế mà, được bao lần chúng ta nhìn lại, sự hiện hữu nhiệm màu của Mẹ Cha bên ta. Hay chỉ nghĩ đó là điều tất yếu, mà quên rằng Cha Mẹ cũng có khoảng trời riêng. Giờ nghĩ lại ta thấy mình quá lỗi, khi chỉ biết Cha Mẹ phải vì ta. Chẳng thế mà trong kinh[2]có nói, chúng ta là: “Mười phần mê muội cả mười, không tường ơn trọng đức dày song thân.” Thật vậy, nếu đọc qua hiểu thấu kinh này, chúng ta liền thấy mình sao quá đỗi nhẫn tâm, làm cho Cha Mẹ bao phen lo buồn. Vậy mà chẳng biết chẳng thương, lại còn cho đó chuyện thường xưa nay. Tội bất hiếu vì đây khó tránh. Thế nên, mau mau y pháp mà hành, một lòng hiếu Mẹ thuận Cha, để mai con cháu nhìn ta mà làm.

Cha Mẹ già xớm khuya thăm hỏi, cơm canh bày sẵn một lòng kính dâng. Nếu chẳng vui thì nên nhớ lại, lúc chúng ta còn thuở thiếu thời, bón cơm bú mớm song thân nào phiền. Lúc ốm đau tay nâng tay đỡ, đừng cậy tiền người khác làm thay; chúng ta có được ngày nay, một tay Cha Mẹ chăm lo ắm bồng, bao công dựng xây đắp bồi. Hơn nữa, Cha Mẹ đâu mãi sống đời, thế nên lựa ý chọn lời dạ vâng. Từ vật chất đến tinh thần, coi sao báo được thù ân thì làm. Kẻo mai Cha Mẹ mất rồi, có ngồi hối hận hiếu con chưa tròn, thì lúc đó nào còn kịp nữa. Nên y theo Vu Lan Bồn pháp, cùng kinh Báo Đáp Công Ơi Cha Mẹ, vào rằm tháng bảy hàng năm, sắm sanh lễ vật cúng dường chư Tăng, đặng cầu nguyện song đường mạnh khỏe, thọ trường; nếu thác rồi về cảnh an vui…

Có thể nói, với Cha Mẹ con cái là cả cuộc đời. Điều này nếu ai đã làm Cha là Mẹ, từng trải qua những cung bậc vui buồn vì con rồi, thì mới hiểu rõ tấm lòng Cha Mẹ. Cũng có nghĩa, nếu chưa từng sanh con nuôi dưỡng con cái, thì cả đời sẽ chẳng bao giờ hiểu hết được những khó nhọc và tình thương cao cả ấy. Thế nên, chúng ta sống trong văn hóa đạo đức Việt, ít nhất phải tạc dạ ghi lòng:

CÔNG CHA NHƯ NÚI THÁI SƠN
NGHĨA MẸ NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN CHẢY RA
MỘT LÒNG THỜ MẸ KÍNH CHA
CHO TRÒN CHỮ HIẾU MỚI LÀ ĐẠO CON.


Vĩnh Nghiêm, Vu Lan năm 2011

Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam



[1]Hay còn nói “tam đồ ác đạo”: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

[2]Kinh Báo Đáp Công Ơi Cha Mẹ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4756)
Arthur Schopenhauer là một triết gia Âu Tây. Thuở thiếu thời, ông như nhiều đứa trẻ đồng tuổi khác, nhưng khác là ông đã gặp nhiều trái ngang trong cuộc đời, một sự thật đúng ra lứa tuổi của ông không nên hội ngộ quá sớm. Và có thể, từ những kinh nghiệm đau đớn này đã tạo nên một dòng tư tưởng lớn, sau này chúng ta biết ông là một triết gia có tư tưởng gần tương đồng với Phật giáo: Quan niệm khổ và nguyên nhân của khổ trong nhân sinh - vũ trụ.
10/04/2013(Xem: 4508)
Trong tất cả lễ hội của Phật giáo, chúng ta thấy rằng Vu-Lan Báo Hiếu là một lễ hội được quần chúng biết đến, quan tâm nhiều, dù người đó là Phật tử hay không phải Phật tử. Dân gian quen gọi ngày rằm tháng bảy là ngày lễ Trung Nguyên, ngày “Xá tội vong nhân” qua khẩu truyền.
10/04/2013(Xem: 5916)
Khi nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục, thì chúng ta đã tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng tình sâu, của dòng tâm thức luân lưu bất diệt. Một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng, lúc sâu lắng lúc thì nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủ vừa rung động thức tỉnh. Thế mới biết, giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ “Mẹ ơi” cho trọn vẹn.
10/04/2013(Xem: 5007)
Giáo pháp của đạo Phật sâu thẳm được ví như đại dương mênh mông. Cửa vào đạo có muôn ngàn lối, hành giả khi bước vào nếu không trang bị đức tin vững vàng chắc sẽ choáng ngợp bởi sự uyên áo, sâu kín và pháp mầu vi diệu. Nếu thế thì con đường vào đạo của chúng ta thì sao, những người đầy nghiệp lực và hệ lụy của tham ái?
10/04/2013(Xem: 4672)
Với cái nhìn tuệ giác, Đức Phật quán chiếu trong vòng nghiệp duyên của chúng sanh, Ngài đã thấy được không có một chúng sanh nào tồn tại độc lập, mà ngược lại lưu chuyển trong vòng tương duyên với nhau. Tất cả vì vô minh, mà chúng sanh không thấy được Ngài. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân diễn tả, có lần Đức Phật đi trên đường và thấy bên lề đường một đống xương khô, Ngài đã lễ lạy đống xương ấy.
10/04/2013(Xem: 4743)
Là Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoát và giác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràng và căn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.
10/04/2013(Xem: 4358)
Truyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờ có hình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay.
10/04/2013(Xem: 5188)
Ánh sáng giác ngộ được hiểu như là một sự dập tắt vô minh, vọng tưởng điên đảo trong tâm trí của con người, là sự biết rõ sự thật về nguyên nhân và kết quả, nhận thức và hành động, con người và môi trường xung quanh. Giác ngộ là sự hiểu biết chân chánh, thấy rõ bản chất như thật của sự vật, vạn pháp. Giác ngộ còn có nghĩa là đoạn tận khổ đau, dứt trừ những tập khí phiền não bao trùm đời sống của con người trong nhiều kiếp sống, là sự thoát ly những con đường dẫn chúng sanh lên xuống trong sáu nẻo luân hồi trong vô minh bừng cháy.
10/04/2013(Xem: 5417)
Bát Chánh Đạo hoặc Bát Thánh Đạo là giáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo. Trong bài pháp Tứ đế đầu tiên đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển, về phương pháp hành trì hay Đạo đế, con đường dẫn đến an vui Niết bàn. Đức Phật đã long trọng chỉ Bát thánh đạo cho năm bạn đồng tu là nhhóm Kiều Trần Như.
10/04/2013(Xem: 4499)
Chúng ta thấy rất rõ, từ cái nhìn của một người dù không phải là Phật tử , khi họ thấy chiếc y màu vàng đắp trên người của các vị Tăng Phật giáo, họ vẫn dễ dàng nhận biết được đó là tu sỹ Phật giáo, một cái nhìn quán tính, đã ăn sâu trong ký ức của mọi người. Đó là hình ảnh hiện thân của Đức Phật, và ngày này vẫn được tiếp nối trong Phật giáo. Ít nhất, hình bóng này, người bình thường cũng dễ dàng nhận biết và phân biệt được. Như Phật tử chúng ta có dịp thấy chư Tăng Nam tông ở các nước theo truyền thống Nam tông như Thái lan, Tích Lan, Miến điện, Lào và Campuchia v.v... và một bộ phận nhỏ ở Việt nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]