Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Trước Và Sau Năm 1975 (Sách PDF)

12/06/202120:34(Xem: 15176)
Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Trước Và Sau Năm 1975 (Sách PDF)
Lịch Sử Phật Giáo VNHN trước và sau năm 1975_photo
Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Trước Và Sau Năm 1975
HT Thích Như Điển

 

Trước khi vào sách

 

Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều, bởi những lý do sau đây:

 

-    Việc làm nên lịch sử của một Dân Tộc hay một Tôn Giáo không phải của một người mà của toàn dân và của cả những tín đồ thuần thành trung kiện với Đạo, do đó việc ghi lại những dữ kiện của lịch sử đã xảy ra trong quá khứ cũng đòi hỏi phải có nhiều người viết, hay tham khảo nhiều ý kiến khác nhau, nên chúng tôi mong rằng quyển sách nầy chỉ là một trong những đóng góp nhỏ về vấn đề lịch sử Phât Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại vậy. Chúng tôi rất đau xót khi dở lại những trang sữ cũ của Phật Giáo nước nhà, vì thiếu trước hụt sau cả một thời hưng thịnh của những triều Lý triều Trần gần 400 năm (1010-1400) ít ra Phật Giáo chúng ta phải ghi lại được 20 bộ sử, nhưng ngày nay không còn sót lại một bộ nào cả, mãi đến đầu thế kỷ thứ 20 nầy mới có một số danh Tăng như Thượng Tọa Thích Mật Thể, Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh bắt đầu ghi chép, lượm lặt những tài liệu cũ biên lại thành tập, như quyển Lịch Sử Phât Giáo Việt Nam và Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (quyển 1 & 2), như vậy việc khiếm khuyết về lịch sử không thể nào không có được với sự hiện diện của Phật Giáo đối với Dân Tộc Việt Nam hơn 18 thế kỷ qua. So với bộ Lịch Sử Phật Giáo của Nhật Bản, Trung Hoa hay Đại Hàn có cả hằng trăm quyển, trong khi đó tài liệu về lịch sử Phật Giáo Việt Nam của chúng ta còn thiếu sót nhiều lắm. Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ ngày xưa Quý vị Tổ Sư cũng đã có ghi chép lại, nhưng vì chinh chiến triền miên trong nhiều thế kỷ, phần bị thiêu hủy, phần không được phổ biến trong nhân gian, nên tài liệu không còn sót lại là bao so với công cuộc xây đạo, dựng đạo cũng như xây nước, dựng nước của Phật Giáo Việt Nam đối với Dân Tộc Việt Nam. Do đó chúng tôi định ghi lại một số dữ kiện lịch sử của Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại kể từ trước đến nay, đặc biệt nhất là thời điểm từ sau năm 1975 trở lại đây để làm một tài liệu sơ khởi cho những ai muốn nghiên cứu về lịch sử Phật Giáo Việt Nam sau nầy.

 

-   Chúng tôi cũng suy nghĩ rất nhiều về việc làm trên, vì tài còn non, sức còn kém đâu có dám đội đá vá trời, mang cát lấp biển, nên sanh tâm e ngại nhưng nhìn lại cho cùng thì phải làm và nên làm, do đó nếu trong tập sách nầy có thiếu sót gì hay có điều gì không được chính xác, kính mong các bậc cao minh chỉ giáo cho.

 

Nếu viết về Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại từ năm 1975 trở về trước, có lẽ phải cần tham cứu nhiều sách vở của Trung Hoa, Đại Hàn, Tây Tạng, Nhật Bản nhiều hơn nữa, vì Phật Giáo Việt Nam trong quá khứ đã có liên quan hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với các dân tộc trên. Ngày xưa khi Việt Nam còn lệ thuộc người Trung Hoa (trước năm 938), thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã gởi những danh tăng Việt Nam sang Trung Quốc du học, sau khi thành tài trở về nước phục vụ cho dân, cho Giáo Hội và khi Việt Nam đã được độc lập tự chủ kể từ đời Ngô Quyền (938) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam cũng đã gởi danh tăng sanh Nhật Bản để du học và truyền Đạo, ví dụ như Ngài Phật Triết là vị Tăng Sĩ Việt Nam đầu tiên sang du học tại Nhật vào đầu thế kỷ thứ 10, sau đó truyền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam cho Phật Giáo Nhật Bản gọi là nhạc “Bạt Đầu” và trong hiện tại nhạc Phật Giáo Việt Nam vẫn còn được bảo tồn tại viện Nhã Nhạc của Hoàng Cung Nhật Bản. Ngài Phật Triết cũng là người đã chỉ huy ban nhạc của chùa Đông Đại Tự (Todaiji) tại Nara (Nại Lương - Nhật Bản) và ngày 8 tháng 5 năm 1980 vừa qua nhân dịp hoàn thành việc trùng tu ngôi chùa Đông Đại Tự, ngôi chùa bằng gỗ lớn nhất thế giới - Viện Nhã Nhạc của Hoàng Gia Nhật Bản đã cho trình diễn lại âm nhạc Phật Giáo Việt Nam để ghi nhớ công ơn của Ngài Phật Triết đã mang âm nhạc cổ truyền Phật Giáo Việt Nam đến cống hiến cho nền âm nhạc Phật Giáo Nhật Bản được phong phú hơn. Đây chỉ là một câu chuyện và nếu có thì giờ tìm hiểu nhiều hơn nữa, chúng tôi tin rằng sẽ viết được nhiều quyển sách về lịch sử Phật Giáo Việt Nam trước năm 1975 tại Hải Ngoại, nhưng nơi đây chúng tôi chỉ muốn ghi lại một số dữ kiện lịch sử gần nhất, nhằm bảo tồn những Văn Hóa cũng như Lịch Sử của Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại, để khỏi phải mai một với thời gian. Kính mong Quý vị độc giả hỷ thứ cho.

 

-    Kể từ năm 1954, Phật Giáo Việt Nam đã ảnh hưởng phong trào duy tân Phật Giáo của Ngài Thái Hư Đại Sư (1932) bên Trung Hoa, nên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hằng năm đã gởi những Tăng Sĩ xuất sắc sang học Đạo và học Văn Hóa tại các nước Nhật, Ấn Độ, Đài Loan, Tích Lan, Thái Lan, Mỹ, Anh, Đức… để học hỏi những sự văn minh tiến bộ tại xứ người, sau khi học thành tài đỗ đạt, về nước phục vụ nhằm phát triển Đạo Pháp và Văn Hóa cho hợp với căn cơ và hoàn cảnh của người Phật Tử Việt Nam. Đã có nhiều vị ra đi du học, đã thành tài về nước phục vụ và cũng có nhiều vị đang hướng dẫn đồng bào Phật Tử tại Hải Ngoại. Trong phần sau chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề nầy.

 

-   Thời điểm năm 1975 là thời điểm mà Việt Nam bị 2 luồng tư tưởng giữa cộng sản và tư bản chi phối, năm 1975 cũng là năm mà thế giới biết đến người tỵ nạn vượt biển bằng thuyền hay vượt biên bằng đường bộ qua những nơi hiểm nguy đến tánh mạng mớì đến được bến bờ tự do với trên nửa triệu người bị chết đói, chết khát trên biển cả hay trong rừng sâu cũng chỉ vì 2 chữ TỰ DO, và cũng chính vì vấn đề chết chóc, khốn khổ nầy nên sau khi đi đến bến bờ tự do, người tỵ nạn Phật Tử Việt Nam lại nghĩ ngay đến vấn đề niềm tin và tinh thần của họ, nên chùa chiền được mọc lên khắp năm châu, nhằm xoa dịu những nỗi khổ đau của con người…, và cũng chính vì đời sống vật chất của Châu Âu, Châu Mỹ hay Châu Úc quá xa lạ với nếp sống cố hữu của người Việt Nam tại quê hương của họ, nên chùa chiền là nơi để họ có thể sinh hoạt như trong đất nước Việt Nam, không gặp những sự trở ngại về ngôn ngữ hay tập quán, phong tục ở thế giới bên ngoài mà họ thường gặp trong đời sống hằng ngày.

 

Những người trẻ tuổi thường hay thích hợp với đời sống mới tại mỗi Quốc Gia họ ở, nhưng đối với những người lớn tuổi thật cả một vấn đề khó khăn, vì ngôn ngữ không rành, khí hậu khác biệt và đường sá không quen, nên chùa chiền đối với họ lại là một nhu cầu rất cần thiết, đó là nơi chốn có thể hàn huyên tâm sự với nhau, bảo tồn những việc hay, việc đẹp của Tôn Giáo, Văn Hóa, Tập Tục cũ v.v…

 

Đối với những người trẻ ở khía cạnh nầy tương đối ít có nhu cầu hơn, vì phải dành nhiều thì giờ cho việc học hành, thi cử, làm việc v.v… chỉ khi nào chùa có lễ lớn hoặc trong gia đình có người quá vãng hay những lúc rảnh rỗi vào cuối tuần họ mới đến chùa và nếu nơi nào có tổ chức những Gia Đình Phật Tử cho những người trẻ sinh hoạt như văn nghệ, hội họa v.v… thì giới trẻ đến tham gia càng đông, vì hợp với khả năng và thị hiếu của họ.

 

Tuy nhiên, khi con người còn đau khổ là Phật Giáo còn hiện thân để cứu người và giúp đời, do đó Phật Giáo sẽ là một chất liệu dưỡng sinh cho bao tâm hồn của người Việt hay cho những ai muốn nhìn nhận Phật Giáo là một Tôn Giáo của đời mình trong sự giải thoát và giác ngộ.

 

Sau cùng chúng tôi xin thành thật cảm ơn Chính quyền và nhân dân Tây Đức, đặc biệt là Bộ Nội Vụ Liên Bang đặc trách vấn đề Tôn Giáo và Văn Hóa, Tiến Sĩ Geißler, đã giúp đỡ người tỵ nạn chúng tôi trên đất nước của Quý vị một cách tận tình và chu đáo, không những về vật chất mà ngay cả vấn đề tinh thần, và cũng chính nhờ sự giúp đỡ tài chính của Bộ Nội Vụ nên tập sách nầy mới ra đời và mới đến tay Quý vị được. Ơn đức ấy chúng tôi sẽ không bao giờ quên cả.

 

Chúng tôi cũng xin cảm niệm công đức của chư tôn Hòa Thượng, chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni Việt Nam khắp nơi trên thế giới đã hướng dẫn hoặc cung cấp những tài liệu cho quyển sách nầy thật quý vô hạn.

 

Chúng tôi tin rằng những chùa Việt Nam hiện có khắp nơi trên thế giới chưa thâu thập hết được, nhưng hy vọng trong lần tới chúng tôi sẽ bổ sung về phần thiếu sót ấy.

 

Nguyện cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Tăng, Thánh Tử Đạo gia hộ cho Việt Nam sớm hòa bình, nhân dân an lạc và tất cả những người cùng khốn sớm nhận chân được con đường giác ngộ mà Đức Thế Tôn đã đi và đã đến cách đây 2526 năm về trước.

  

Mùa Xuân năm Nhâm Tuất

Ngày 24 tháng 4 năm 1982

Tác giả: Thích Như Điển

  

buddha and lotus


LỜI ĐẦU

 So với số người tỵ nạn Việt Nam hiện có khắp nơi trên thế giới ngày nay (cho đến năm 1982) là 1.000.000 (một triệu) người, trong đó có khoản 80% là những tín đồ của Phật Giáo, nhưng chỉ có trên dưới 100 nam nữ Tu Sĩ Phật Giáo Việt Nam hiện ở khắp năm châu để hướng dẫn đồng bào Phật Tử, kể như thế cũng chưa đủ với nhu cầu của đồng bào, nhưng người xuất gia trong hiện tại rất hiếm, do đó những vị lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo cũng đang lo ngại cho vấn đề truyền đạo và hành đạo của Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trong tương lai.

Dưới đây là danh sách của chư tôn Hòa Thượng, chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni đang có mặt khắp năm châu, và chúng tôi liệt kê danh sách nầy theo mẫu tự A, B, C, D… theo phẩm trật ví dụ cấp bậc Hòa Thượng theo thứ tự của cấp bậc ấy và Thượng Tọa, Đại Đức cũng vậy. Kính xin chư tôn Giáo Phẩm từ bi hoan hỷ cho.

Có một số quý vị đã đi khỏi Việt Nam quá lâu hay có những vị mới đến bến bờ tự do nhưng chúng tôi chưa có cơ duyên để gặp gỡ nên không có phương danh được ghi lại trong sách nầy cũng xin chư vị niệm tình hỷ thứ cho.


Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát

 




facebook-1


youtubeQuang Duc Monastery Youtube Channel

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/08/2014(Xem: 19638)
Sự rèn luyện cốt lõi nhất trong Phật giáo, và cho chủ đề này trong bất kỳ con đường tâm linh nào đều là “phương tiện thiện xảo”, nhờ đó hành giả có khả năng chuyển hóa mọi khía cạnh cuộc sống hàng ngày của họ thành rèn luyện tâm linh. Rèn luyện tâm linh là những luyện tập làm giải thoát tâm thức khỏi sự bám chấp mãnh liệt và lực khao khát thúc đẩy của chúng ta. Sự rèn luyện tâm linh xoa dịu đau khổ tạo ra bởi quan điểm chật hẹp, cứng rắn và những cảm xúc hỗn loạn, thiêu đốt của chúng ta.
17/08/2014(Xem: 14974)
Vâng theo lời dạy của Thầy Lama Zopa Rinpoche, chúng con dịch cuốn sách này ra tiếng Việt với ước muốn chia sẻ những lời dạy của Thầy đến bạn bè, tất cả những ai quan tâm tu tập Phật pháp, đặc biệt là trau giồi Bồ-đề tâm để chữa lành tận gốc mọi bệnh tật của cả thân và tâm. Chúng con kính dâng lòng tôn kính và tri ân sâu xa lên Thầy Zopa Rinpoche, một Kadampa trong thời hiện đại, Người là nơi nương tựa của chúng con mãi mãi, Người dạy chúng con đi vào đường tu giác ngộ.
17/08/2014(Xem: 25361)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23295)
Đặc tính: Tự thể của thân trung ấm mang 5 đặc tính:[38] 1. Nó có đầy đủ các giác quan. 2. Vì nó sinh ra một cách tự nhiên, tất cả các chi (tay chân) chính và phụ của nó sinh ra đầy đủ đồng thời với thân. 3. Vì nó có thân vi tế nên không thể bị tiêu diệt dù bằng vật cứng như kim cương. 4. Trừ nơi tái sinh của nó như là trong dạ con, bụng của người mẹ, ngoài ra không vật gì có thể cản được thân trung ấm đi qua, dù là núi non, hàng rào v.v...
17/08/2014(Xem: 17860)
Việc tìm hiểu về các tông phái khác nhau trong đạo Phật luôn là điều cần thiết đối với hầu hết những người học Phật.Tập sách này là một công trình biên soạn công phu, có hệ thống, tuy ngắn gọn nhưng khá đầy đủ để mang lại một cái nhìn tổng quan về các tông phái trong đạo Phật, cũng như giúp người đọc nắm hiểu sơ lược về tôn chỉ và đặc điểm chính yếu của từng tông phái.
17/08/2014(Xem: 15207)
“Đạo lý nhà Phật, là một nền đạo lý thâm trầm, siêu việt hơn hết”. Ấy là lời nói của nhiều nhà thông thái xưa nay trên hoàn võ, và cũng là một mối cảm của chúng tôi nữa. Sau khi lăn lóc nơi trần gian thế sự, mỏi gối chồn chân vì bã lợi danh, chìm nổi nơi bể ái sóng tình, rồi ngồi nghĩ lại cái đời mình, bao người lấy làm ngao ngán! Bấy giờ tưởng đạo lý nhà Phật với mình cũng như chiếu bông gối dựa đối với người buồn ngủ, tha hồ mà ôm ấp lấy!
17/08/2014(Xem: 12859)
Sức sống của một nền đạo lý từ bi, trí tuệ như Đạo Phật thì chỉ có thể là sức sống văn hóa. Bởi vì, chỉ trên bình diện văn hóa, hoặc ở những hình thái sống động của đời sống hoặc thâm trầm trong tâm hồn con người, nguồn suối từ bi, trí tuệ mới có thể thẩm thấu, chan hòa như đã thẩm thấu chan hòa trong đời sống và tâm hồn của phần lớn các dân tộc Á Đông.
17/08/2014(Xem: 19344)
Tuy là những tích xưa, chuyện cổ, nhưng đối với người có óc quan sát sẽ rất là bổ ích, vì trong ấy chứa đựng những tư tưởng cao xa thâm thúy về triết lý đạo đức. Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn. Sau khi xem những chuyện tích được sưu tập trong phần này, hy vọng độc giả sẽ có thể dễ dàng thấy được những ý nghĩa đạo lý đã có tự ngàn xưa, được ghi lại qua những câu chuyện rất thú vị, làm cho chúng ta vui thích.
17/08/2014(Xem: 20276)
Tín đồ Phật giáo tin rằng có một con người thật được tôn xưng là đức Phật, hay Đấng Giác Ngộ, đã nhận ra được trí huệ sáng suốt xa xưa, hay nói đúng hơn là từ vô thủy, của con người. Và ngài đã làm được điều này ở Bihar, Ấn Độ, vào khoảng từ năm 600 cho đến 400 trước Công nguyên – thời gian chính xác không được biết.
17/08/2014(Xem: 18183)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Tuy nhiên, từ khi tổ Bồ-đề Đạt-ma đến Trung Hoa (vào khoảng năm 520) cho đến lúc Thiền tông Trung Hoa thực sự phát triển hưng thịnh, đã phải mất gần hai thế kỷ, truyền qua năm đời tổ sư, cho đến vị tổ thứ sáu là Huệ Năng (638 - 713) thì Thiền tông mới thực sự trở thành một trong những tông phái mạnh nhất của Phật giáo Trung Hoa. Với sự hoằng hóa của Lục tổ Huệ Năng ở đất Tào Khê, Thiền tông đã lan rộng ra khắp nơi và không bao lâu đã phát triển thành 5 tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Quả đúng như bài kệ nổi tiếng được cho là do tổ Đạt-ma truyền lại:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]