Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Phẩm Phật đạo

13/12/201004:51(Xem: 6823)
8. Phẩm Phật đạo

 

Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng
Dương Lịch 1970

VIII PHẨM PHẬT ĐẠO(1)

Bấy giờ Ngài văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng :
- Bồ Tát thế nào là thông đạt Phật đạo ?
- Bồ Tát thật hành phi đạo(2) (trái đạo) là thông đạt Phật đạo.
- Lại hỏi : Thế nào là Bồ Tát thật hành Phi đạo ?
- Nếu Bồ Tát gây năm tội vô gián(3) mà không buồn giận, đến ở trong địa ngục mà không có tội cấu; đến trong loài súc sanh mà không có những lỗi vô minh kiêu mạn; đến trong ngạ quỉ mà vẫn đầy đủ công đức; đến cảnh Sắc và Vô Sắc giới mà không cho là thù thắng; hiện làm tham dục mà không nhiễm đắm; hiện làm giận dữ mà đối với chúng sanh không có ngại gì; hiện cách ngu si mà dùng trí tuệ điều phục tâm mình; hiện làm hạnh tham lam bỏn sẻn mà bỏ tất cả của cải, không tiếc thân mạng; hiện phá giới cấm mà ở trong tịnh giới, đến như tội bé nhỏ cũng hết lòng sợ sệt; hiện làm giận dũi mà thường từ bi, nhẫn nhục; hiện làm lười biếng mà siêng tu các công đức; hiện làm loạn ý mà thường niệm định; hiện làm ngu si mà thông đạt trí tuệ thế gian và xuất thế gian; hiện làm dua dối mà phương tiện thuận theo nghĩa các kinh; hiện làm kiêu mạn mà đối với chúng sanh mình cũng như cầu, đò(4); hiện làm tất cả phiền não mà lòng thường thanh tịnh; hiện vào trong chúng ma mà thuận theo trí tuệ của Phật, không theo đạo giáo khác; hiện làm hàng Thanh Văn mà nói các pháp chưa từng nghe cho chúng sanh; hiện vào hàng Bích Chi Phật mà thành tựu lòng đại bi, giáo hóa chúng sanh; hiện vào hạng nghèo nàn mà có tay đầy đủ của công đức; hiện vào hạng tàn tật mà đủ tướng tốt để trang nghiêm thân mình; hiện vào hạng hèn hạ mà sanh trong giòng giống Phật, đầy đủ các công đức; hiện vào hạng người ốm yếu xấu xa mà được thân Na-la-diên (kim cang), tất cả chúng sanh đều muốn xem; hiện vào hạng già bịnh mà đoạn hẳn gốc bịnh, không còn sợ chết; hiện làm hạng giàu có mà xem là vô thường, không có tham đắm; hiện có thê thiếp, thế nữ mà tránh xa bùn lầy ngũ dục; hiện nơi hạng đần độn mà thành tựu biện tài, vẫn giữ tổng trì; hiện vào tà tế(5) mà dùng chánh tế độ chúng sanh; hiện vào khắp các đạo, để đoạn dứt nhơn duyên; hiện vào Niết bàn mà không bỏ sanh tử. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ? Nếu Bồ Tát làm được những việc trái đạo như thế, đấy là thông suốt Phật đạo.

Bấy giờ, ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :
- Thế nào là hột giống Như Lai ?
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói :
- Có thân là hột giống; vô minh có ái là giống; tham, sân, si là giống; 4 món điên đảo(6) là giống; 5 món che ngăn là giống; 6 nhập là giống ; 7 chỗ thức(7) là giống; 8 pháp tà(8) là giống; 9 món não(9) là giống; 10 điều bất thiện là giống; nói tóm lại 62 món tà kiến và tất cả phiền não đều là giống Phật cả.

Ông Duy Ma Cật hỏi :
- Tại sao thế ?
- Nếu người thấy vô vi mà vào chánh vị (Niết bàn) thời không thể còn phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nữa. Ví như chỗ gò cao không thể sinh hoa sen, mà nơi bùn lầy thấp ướt mới có hoa sen. Như thế, người thấy vô vi, vào chánh vị không còn sanh trong Phật pháp được, mà ở trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh nghĩ đến Phật pháp mà thôi. Lại như gieo hột giống trên hư không thì không sinh được, ở đất phân bùn mới tốt tươi được. Như thế, người đã vào vô vi chánh vị không sanh được trong Phật pháp, kẻ khởi ngã kiến như núi Tu Di còn có Thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà sinh trong Phật pháp. Cho nên phải biết tất cả phiền não là giống Như Lai. Ví như không xuống bể cả, không thể đặng bảo châu vô giá, cũng như không vào biển cả phiền não thời làm sao mà có ngọc báu “nhứt thiết trí”.

Lúc bấy giờ Ngài Đại Ca Diếp khen rằng :
- Hay thay ! Hay thay ! Ngài Văn Thù Sư Lợi, lời nói thích quá. Thật đúng như lời Ngài nói những bọn trần lao là giống Như Lai. Hôm nay, chúng tôi không còn kham phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đến như người đủ 5 tội vô gián còn có thể phát ý mong sanh trong Phật pháp, mà nay chúng tôi hoàn toàn không phát được. Ví như những người 5 căn(10) đã hư, đối với 5 món dục lạc chẳng còn cảm xúc. Cũng như hàng Thanh Văn đã đoạn hết kiết sử, ở trong Phật pháp không còn có lợi ích gì mấy, bởi không còn có chí nguyện.

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Vì thế nên phàm phu ở trong Phật pháp còn có ảnh hưởng, mà hàng Thanh Văn thời không. Vì sao ? Vì phàm phu nghe Phật nói pháp khởi được đạo tâm vô thượng, chẳng đoạn Tam bảo, còn chính như Thanh Văn trọn đời nghe Phật pháp : 10 lực, 4 món vô úy v.v. . . mà hoàn toàn cũng không phát được đạo tâm vô thượng.

Trong chúng hội có Bồ Tát tên Phổ Hiện Sắc Thân hỏi ông Duy Ma Cật rằng :
- Cư sĩ ! Cha mẹ , vợ con, thân bằng quyến thuộc, những người tri thức là ai ? Tôi tớ, trai bạn, voi ngựa, xe cộ ở đâu ?

Ông Duy Ma Cật dùng bài kệ đáp rằng :

Trí độ(11) mẹ Bồ Tát,
Phương tiện ấy là cha,
Đạo sư tất cả chúng,
Đều do đấy sanh ra.
Pháp hỷ(12) Chính là vợ,
Tâm từ bi là gái,
Tâm thành thực là trai,
Rốt ráo vắng lặng : nhà.
Trần lao(13) là đệ tử,
Tùy ý mà sai sử,
Đạo phẩm (14) vốn bạn lành .
Do đấy thành chánh giác.
Các độ(15) là pháp lữ,
Tứ nhiếp là kỹ nữ.
Ca ngâm tụng lời pháp,
Lấy đó làm âm nhạc,
Vườn tược ấy tổng trì(16),
Cây rừng, pháp vô lậu,
Hoa, giác ý(17) sạch mầu,
Trái, giải thoát trí tuệ.
Bát giải (thoát)(18) là ao tắm,
Nước định lặng trong đầy,
Rải bảy thứ tịnh hoa(19),
Để tắm người không nhơ.
Ngũ thông (20), voi, ngựa chạy,
Đại thừa là xe cộ,
Cầm cương là nhất tâm,
Dạo chơi đường bát chánh(21).
Tướng đủ nghiêm mặt mày,
Các tốt trau hình dáng,
Hổ thẹn làm thượng phục(22),
Thâm tâm làm tràng hoa.
Giàu có bảy của báu(23)
Dạy bảo để thêm lợi,
Như lời nói tu hành,
Hồi hướng làm lợi lớn.
Tứ thiền làm giường ghế,
Từ tịnh mạng sanh ra,
Học rộng thêm trí tuệ,
Đó là tiếng tự giác.
Món ăn : pháp cam lồ,
Nước uống : vị giải thoát,
Tắm rửa sạch tịnh tâm,
Hương thoa là giới phẩm.
Trừ dẹp giặc phiền não,
Mạnh mẽ không ai hơn,
Hàng phục bốn thứ ma(24)
Phướng tốt dựng đạo tràng.
Tuy biết không sanh diệt,
Vì dạy chúng, có sanh,
Khắp hiện vào các cõi,
Như mặt nhựt, đều thấy.
Cúng dường khắp mười phương,
Không lường ức Như Lai,
Chư Phật và thân mình,
Không có tưởng phân biệt.
Dầu biết các cõi Phật,
Với chúng sanh đều không,
Mà thường tu Tịnh độ,
Dạy dỗ cho quần sanh.
Bao nhiêu loài hữu tình,
Oai nghi cùng hình, tiếng,
Bồ Tát lực, vô úy,
Đồng thời đều khắp hiện.
Rõ biết các việc ma,
Mà hiện theo hạnh nó.
Dùng trí phương tiện khéo,
Tùy ý đều hay hiện,
Hoặc hiện già, bịnh, chết,
Thành tựu cho chúng sanh.
Rõ biết như huyễn hóa,
Thông suốt không ngăn ngại.
Hoặc hiện kiếp cháy tan,
Đại địa đều trống rỗng,
Những người có tưởng “thường”,
Soi thấy rõ vô thường.
Vô số ức chúng sanh,
Đều đến thỉnh Bồ Tát,
Đồng thời đến nhà kia,
Dạy cho về Phật đạo.
Kinh sách, cấm, chú thuật.
Các nghề nghiệp khéo léo,
Đều hiện làm việc ấy,
Lợi ích cho quần sanh.
Các đạo pháp thế gian,
Nương đấy mà xuất gia,
Để giải mê cho người,
Mà chẳng đọa tà kiến
Làm Nhựt, Nguyệt thiên tử,
Làm Phạm Vương, chủ, chúa,
Hoặc khi làm đất nước,
Hoặc lại làm gió lửa.
Vào kiếp có tật dịch,
Hiện làm các cây thuốc,
Nếu người nào uống đến,
Các bịnh ác tiêu trừ.
Vào kiếp có đói khát,
Hiện làm đồ uống ăn,
Trước là cứu đói khát,
Sau giảng dạy chính pháp.
Vào kiếp có đao binh,
Duyên khởi lòng từ bi,
Giáo hóa cho chúng sanh,
Tâm đừng còn tranh đấu.
Nếu có chiến trận lớn,
Làm cho sức ngang nhau,
Bồ Tát hiện oai thể,
Hàng phục để yên hòa.
Trong tất cả cõi nước,
Chỗ nào có địa ngục,
Đi ngay đến nơi đấy,
Cứu vớt người khổ não.
Trong tất cả cõi nước,
Súc sanh ăn lẫn nhau,
Đều hiện sanh ra nó,
Làm cho được lợi ích.
Thị hiện trong ngũ dục,
Lại cũng hiện tu thiền,
Để tâm ma rối loạn,
Không thừa dịp hại đặng.
Hoa sen sanh trong lửa,
Thật đáng gọi ít có,
Cõi Dục mà tu thiền,
Ít có cũng như thế.
Hoặc hiện làm dâm nữ,
Dắt dẫn kẻ háo sắc,
Trước lấy dục dụ người,
Sau khiến vào trí Phật.
Hoặc làm chủ trong ấp,
Hoặc làm thầy khách buôn,
Quốc sư và Đại thần,
Để lợi ích chúng sanh.
Các chỗ có kẻ nghèo,
Hiện làm kho vô tận,
Nhân đó khuyến dạy người,
Cho phát tâm vô thượng.
Kẻ kiêu căng ngã mạn,
Hiện làm những lực sĩ,
Tiêu phục lòng cống cao,
Quay về đạo Vô thượng.
Những người hay sợ sệt,
Đến nơi để an ủi,
Trước thí pháp “không sợ”,
Sau dạy phát đạo tâm.
Hoặc hiện lìa dâm dục,
Làm vị tiên ngũ thông,
Chỉ dạy cho chúng sanh,
Để được giới, nhẫn, từ.
Thấy người cần hầu hạ,
Hiện làm kẻ tôi tớ,
Vừa đẹp ý người kia,
Vừa phát được đạo tâm.
Tùy theo việc cần dùng,
Mà vào trong Phật đạo,
Dùng sức phương tiện khéo,
Đều giúp cho đầy đủ.
Đạo pháp nhiều không lường,
Việc làm không bờ mé,
Trí tuệ không hạng lượng,
Độ thoát vô số chúng.
Dầu cho tất cả Phật,
Trong vô số ức kiếp,
Khen ngợi công đức kia,
Cũng không thể hết được.
Ai nghe pháp như thế,
Chẳng phát tâm Bồ Đề,
Trừ những người bất tiếu,
Ngu si không trí tuệ.

Chú thích của phẩm VIII

1. Phật đạo : Tiếng Phạn là Phật đà Bồ đề, nghĩa là đạo giác ngộ như thật. Lại chỉ tất cả cáe điều phước huệ thanh tịnh thuần thiện của Phật đã thành tựu viên mãn, đều gọi là Phật đạo.

2. Phi đạo : Chẳng phải Phật đạo, nghĩa là những phiền não tạp nhiễm, tập nghiệp của tất cả chúng sanh trong ba cõi, ba đời và đạo pháp của Nhị thừa đều chẳng phải Phật đạo. Nhưng nếu thông đạt Phật đạo thì phi đạo toàn là Phật đạo. Tỷ như thật hành các việc trong đời, mà không sa mắc vào đời, cho đến thật hành hiện nhập Niết Bàn của Nhị thừa, mà chẳng dứt sự sanh tử, độ sanh. Đó là ở nơi phi đạo mà tự tại siêu xuất phi đạo, nên tức nơi phi đạo mà thông đạt Phật đạo.

3. Năm tội vô gián : 1) Giết cha, 2) Giết mẹ, 3) Giết A La Hán, 4) Phá hòa hiệp của chúng Tăng, 5) Làm cho thân Phật ra máu. Người tạo ra năm tội này, phải đọa vào đia ngục Vô gián (A tỳ), chịu các sự khổ bức, không khi nào hở dứt, nên gọi là Vô gián.

4. Như cầu, đò : ý nói rất khiêm nhượng hạ mình, nghĩa là dù bị ngườl đời lấn lướt khinh khi, nhưng vẫn nhẫn chịu không khinh mạn lại, cũng như cầu đò cứ chịu họ dày đạp qua lại.

5. Tà tế, Chánh tế : Ngoại đạo gọi là tà tế, ví như chỗ hiểm nạn dối gạt người. Phật đạo gọi là chánh tế, ví như chỗ bến đò có thể đưa người qua được.

6. Bốn món điên đảo :
1) Sự vật trong thế gian là vô thường mà chấp là thường,
2) Ngũ dục lạc, không phải vui mà chấp là vui,
3) Thân này không phải ta mà chấp là ta,
4) Thân này nhơ nhớp mà chấp là sạch.
Đây là 4 món chấp của phàm phu.

7. Bảy chỗ thức :
1) Sơ thiền,
2) Nhị thiền,
3) Tam thiền,
4) Tứ thiền.
5) Vô biên xứ thiền,
6) Thức biên xứ thiền,
7) Vô sở hữu xứ thiền,
là bảy cảnh giới không có thống khổ bức não, thần thức được an trú. Trừ cõi Vô tưởng và cõi Phi phi tưởng không kể, là vì cõi này tâm tưởng quá vi tế, muội lược, tư niệm không rõ ràng.

8. Tám pháp tà : Đã giải ở phẩm III số 14.

9. Chín món não :
Về quá khứ ai quấy nhiễu mình, quấy nhiễu thân thích mình, thì sanh não, ai khen ngợi kẻ oán của mình, mình cũng sanh não. Quá khứ như thế thì hiện tại và vị lai cũng thế, nên gọi là chín chỗ não.

10. Năm căn : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.

11. Trí độ :
Một độ trong 6 độ, nghĩa là trí tuệ viên mãn hay vượt qua biển sanh tử đến bờ Niết bàn rốt ráo.

12. Pháp hỷ : Nghe pháp lãnh hội được, sanh lòng vui mừng gọi là pháp hỷ.

13. Trần lao : Trần là nhiễm ô, nghĩa là các thứ tà kiến phiền não hay làm nhiễm ô chơn tánh. Lao là nhọc nhằn, nghĩa là các tà kiến phiền não làm cho chúng sanh trôi lăn mệt nhọc trong đường sanh tử.

14. Đạo phẩm : Tức phương pháp giúp người tu hành, thành tựu đạo quả Bồ đề, như 37 phẩm trợ đạo v v

15. Các độ : 6 độ, 10 độ.

16. Tổng trì : Gồm nhiếp các pháp.

17. Giác ý : ý niệm giác sát cho tâm điều hòa thích trung, không cao không thấp, không phóng tán, không hôn trầm.

18. Bát giải : Tức Bát giải thoát đã giải ở phẩm III số 14.

19. Bảy thứ tịnh hoa :
1) Giới tịnh : động tác của thân, khẩu ý thanh tịnh;
2) Tâm tịnh : tâm thanh tịnh không còn nhiễm trước;
3) Kiến tịnh : thấy được chơn tánh các pháp không còn khởi vọng chấp;
4) Độ nghi tịnh : Hiểu biết thấu đáo không còn ngờ vực;
5) Phân biệt đạo tịnh : Phân biệt rõ ràng tà đạo, chánh đạo;
6) Hành đoạn tri kiến tịnh : Tri kiến thật, hành thiện pháp, các ác pháp bị đoạn trừ, được thanh tịnh sáng suốt;
7) Niết Bàn tịnh : Chứng được Niết Bàn xa lìa mọi cấu nhiễm.

20. Ngũ thông : Lục thông trừ Lậu tận thông. Đã giải nơi phẩm II số 24.

21. Bát chánh : Giải ở phẩm II số 26 trong mục 37 phẩm trợ đạo phần sau.

22. Thượng phục : Đồ y phục quí đẹp. Đoạn này, ý nól lấy sự hổ thẹn để ngăn ngừa lỗi quấy, cũng như đồ y phục che được gió lạnh vậy.

23. Bảy của báu :
1) Tín, 2) Giới, 3) Văn, 4)Xả, 5)Tuệ, 6) Tàm, 7) Quý.
Do tin pháp lành nên mới giữ giới. Do giữ giới thì ngăn được các việc ác, việc ác đã dứt, việc lành mới tinh tấn làm thêm. Nhưng tinh tấn làm việc lành cốt do sự học rộng nghe nhiều. Có nghe nhiều đạo pháp, thì tâm niệm mới xả bỏ không còn chấp trước: Do xả bỏ nên trí tuệ phát sanh. Còn tàm và quý cũng như hai người phụ lực để thành tựu 5 pháp trên.
24. Bốn thứ ma :
1) Phiền não ma : tham. sân, si v .v. . . hay làm não hại thân tâm.
2) Ấm ma : sắc, thọ, tưởng, hành, thức, 5 ấm đó thường sanh các thứ khổ não.
3) Tử ma : chết hay đoạn tuyệt mạng căn của người.
4) Thiên ma : Ma Vương ở trên từng trời Tha hóa tự tại thứ 6 của Dục giới, hay làm hại mất việc phúc thiện của người đời.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/03/2021(Xem: 12212)
100 SÁCH PHẬT GIÁO DO TT THÍCH NHẬT TỪ LÀM TÁC GIẢ, BIÊN TẬP 7.A. SÁCH CỦA THÍCH NHẬT TỪ LÀM TÁC GIẢ 1. Thế giới Cực Lạc(link is external). Sài gòn: NXB Văn Hóa Sài gòn, 2010, tr. 142. 2. Chết đi về đâu(link is external). Sài gòn: NXB Văn Hóa Sài gòn, 2010, tr. 126. 3. Cẩm nang viết khảo luận, luận văn & luận án(link is external). Sài gòn: NXB TP. HCM. 2003, tr. 200. 4. Tìm hiểu Kinh bốn mươi hai chương(link is external). Sài gòn: NXB Thời Đại, 2010, tr. 499. 5. Phương trời thong dong(link is external). Sài gòn: NXB Phương Đông. 2010, tr. 87. 6. Chuyển hoá cảm xúc(link is external). Sài gòn: NXB Thời Đại. 2010, tr. 112. 7. Hiểu thương và tuỳ hỷ(link is external). Sài gòn: NXB Thời Đại, 2010, tr. 174. 8. Khủng hoảng tài chánh toàn cầu qua cái nhìn Phật giáo(link is external). Sài gòn: NXB Hải Phòng, 2009, tr. 152. 9. Không có kẻ thù(link is external). Sài Gòn: NXB Thời Đại, 2010, tr. 121. 10. Chuyển hóa sân hận(link is external). Sài Gòn: NXB Phương Đôn
04/03/2021(Xem: 12505)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vương bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả… Đến hôm nay, bổng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này.
05/01/2021(Xem: 18013)
Một số ngôi chùa Ni Giới người Việt tại Hải ngoại (nhiều tập) Kính thưa chư Tôn đức Tăng Ni, Kính thưa quý thân hữu, Bắt đầu ngày 03.01.2021, trên trang facebook: Tuong Vo và trang website: chuaviettoancau.com sẽ giới thiệu một số ngôi chùa Ni Giới người Việt tại Hải ngoại. Việc giới thiệu các ngôi chùa Ni Giới tại Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Nga và Ấn Độ sẽ không theo bất cứ thứ tự nào: 2 ngày 1 chùa. Ngôi chùa Ni Giới ở đây được hiểu là ngôi chùa hiện nay do một vị Ni (Ni trưởng, Ni sư, Sư cô) quản lý (trụ trì, giám tự …). Chúng con chỉ giới thiệu những ngôi chùa mà chúng con có duyên lành đến viếng thăm và chụp ảnh từ năm 2007 đến nay, nên có một số hình ảnh, thông tin chưa được cập nhật. Nếu có những thông tin sai sót, cần sửa hoặc bổ sung, xin quý Chùa, quý thân hữu hoan hỷ liên lạc qua messenger: Tuong Vo hoặc email: [email protected]. Xin chân thành cảm ơn. Về bài viết giới thiệu chùa, chúng con sử dụng thông tin ghi chép trực tiếp lúc viếng chùa; tư liệu từ bộ sác
17/11/2020(Xem: 8078)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
05/11/2020(Xem: 10927)
Bắt đầu năm 1989, theo học lớp Cử nhân Văn Khoa của Trường Đại Học Tổng Hợp (nay là trường Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn tại đường Đinh Tiên Hoàng, quận 1, TP.HCM, Việt Nam), tôi thích trầm tư đắm mình trong những giây phút tuyệt vời ở góc chùa hoặc thư viện của trường để mặc cho chữ nghĩa danh ngôn bất hủ dẫn dắt mình trong vẻ đẹp của nhân cách hướng thượng.
04/11/2020(Xem: 8281)
LỜI GIỚI THIỆU TẬP THƠ NHẠC “LỐI VỀ SEN NỞ” TỪ THƠ CỦA THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. (Ca dao Việt Nam)
11/10/2020(Xem: 15386)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
02/10/2020(Xem: 7949)
NỘI DUNG SỐ NÀY: ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ TỰ VẤN, BÁT NHÃ, HỒI HƯỚNG (thơ Xuyên Trà), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ MÙA ĐÃ VÀO THU (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ NHỚ ƠN NHỊ VỊ HÒA THƯỢNG... (ĐNT Tín Nghĩa), trang 12 ¨ THỜI QUỶ MỘNG (thơ Nguyễn thị Khánh Minh), trang 15 ¨ THƯ KHÁNH TUẾ (Tỳ kheo Thích Tuệ Sỹ), trang 16
15/09/2020(Xem: 13100)
Tranh Minh Họa Kinh Phổ Môn Nghĩa Kinh Dịch: HT. Thích Trí Tịnh Tranh minh họa: Sư Cô Thích Nữ Huyền Linh
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]