Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bảng Chú Giải Thuật Ngữ

08/01/201103:09(Xem: 4513)
Bảng Chú Giải Thuật Ngữ

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo
Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston
none
none

Bảng Chú Giải Thuật Ngữ


Abhidharma. Giáo lý A Tỳ Đàm. Hệ thống hiện tượng học và thần học của đạo Phật, bao gồm sự mô tả và phân tích thân và tâm con người, các bộ chúng sanh, bản chất và sự hình thành vũ trụ và con đường đến giải thoát.
Adhisara. (Tạng, ‘phrul ‘khor) Các tư thế và luyện tập của thân dùng để nâng cao thực hành thiền quán của hành giả.
Anuyoga. Một loại thực hành tantric của Nyingma, tương ứng với giai đoạn hoàn thiện. Thực hành Anuyoga theo sau Mahayoga và tiến đến Atiyoga.
Lỗ mở của địa ngục. Hậu môn, được gọi như vậy vì khi ý thức rời khỏi thân người vào lúc chết bằng đường hậu môn, chỉ ra rằng người đó sắp tái sanh vào cõi địa ngục.
Arya. Một cá nhân đã đạt được nhận biết bất nhị, thiền định phi khái niệm của thực tại tối thượng hoặc tánh không.
Atiyoga. Đồng nghĩa của Đại Viên Mãn (Tạng, rdzogs chen), một hệ thống lý thuyết và thực hành được đi theo chủ yếu bởi luật của Nyingma, Phật giáo Tây Tạng, mục tiêu đạt giải thoát, trực tiếp biết chắc về bản tánh cốt lõi của sự nhận biết.
Địa ngục Avici. A Tỳ. Theo truyền thống sutra, là nơi hành hạ đau đớn nhất của mười tám tầng địa ngục.
Bardo (Phạn, antarabhava). Trạng thái trung gian theo sau cái chết và trước lúc tái sanh kế tiếp của một người. Nói rộng hơn, thuật ngữ bardo có thể ám chỉ bất kỳ sáu tiến trình chuyển tiếp của lúc sống, nằm mộng, nhập định, cận tử, tự thân thực tại và sự trở thành.
Bindu (Tạng, thig le). Dịch tinh túy, hay “giọt”, đi qua kinh mạch trung ương vi tế trong thân người; hình một quả cầu nhỏ, thường được quán tưởng như bản tánh của ánh sáng.
Bodhicitta. Tâm linh Tỉnh thức, hay khát vọng vị tha để đạt được Tinh thần Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Trong tantra, bodhicitta trắng và đỏ là hai loại bindu thường định vị trong kinh mạch trung ương tại đỉnh đầu và dưới rốn, hội tụ lại ở ngực trong tiến trình cận tử và trong dạngï nhập định sâu.
Bodhisttva. Một cá nhân mà Tâm linh Tỉnh thức dễ dàng khởi lên như động cơ ban đầu của họ, phát sinh lòng từ ái và lòng bi to lớn.
Lỗ mở Brahma. Nơi mở ra trong kinh mạch trung ương tại đỉnh đầu, được gọi như vậy vì khi ý thức rời khỏi thân vào lúc chết qua con đường của đỉnh đầu, nó ám chỉ rằng người đó sắp được tái sanh vào cõi trời hay Brahma (Phạm Thiên).
Xuyên thấu (Tạng, khregs chod). Giai đoạn đầu tiên của hai giai đoạn chính trong thực hành của Đại Viên Mãn, mục tiêu nhằm đạt được việc duy trì nhận biết trực tiếp của bản tánh cốt tủy của tâm.
Phật tánh. Bản tánh cốt tủy của tâm, theo Đại Viên Mãn là không có gì khác hơn tâm Phật.
Citta. Thuật ngữ tiếng Phạn này thường ám chỉ tâm, nhưng trong giáo lý cao hơn của Đại Viên Mãn, đôi lúc nó chỉ cho ngực.
Thanh tịnh quang. Bản tánh cốt lõi của tâm, đó là không thể nghĩ bàn, tuy nhiên được đặc tính hóa một cách ẩn dụ như bản tánh của tánh không và tánh sáng.
Daka. Đối tác nam của dakini; daka thường biểu hiện như vị bổn tôn bảo vệ và phục vụ giáo lý đạo Phật và hành giả.
Dakini. Người nữ tâm linh tham gia vào các hoạt động giác ngộ cho lợi ích của thế gian.
Damaru. Một loại trống lắc bằng tay dùng trong nghi lễ tantric.
Deva. Chư thiên hay “trời”; thành viên cao nhất của sáu bộ chúng sanh trong vòng sinh tử, họ kinh nghiệm cực lạc, năng lực và nhận biết mạnh mẽ, tất cả điều này sẽ biến mất khi họ chết từ trạng thái hiện hữu đó.
Dharmakaya. Pháp Thân, Tâm của một vị Phật, được nói là vô biên về mặt trí tuệ rộng mở, lòng bi và năng lực.
Nguyên tố của năng lượng sự sống. Năng lượng, hay “gió” chảy khắp cơ thể, có năm loại năng lượng sự sống chính và phụ, mỗi loại có chức năng sinh lý học khác nhau. “Năng lượng duy trì sự sống” được kết hợp đặc biệt mật thiết với chức năng của tâm.
Bốn cực lạc (Tạng, dga’ ba bzhi). Cực lạc, cực lạc cao nhất, cực lạc phi thường và cực lạc bẩm sinh, xuất hiện trong tiến trình thực hành tan tric nâng cao.
Bốn quán đảnh. Cái bình, bí mật, trí tuệ-ngộ đạo, và quán đảnh lời, cho quyền một người tham gia vào thực hành tantric nâng cao.
Bốn vô lượng. Lòng từ ái vô lượng, lòng bi, cảm thông hoan hỷ vô lượng, và bình đẳng, cung cấp nền tảng cho sự trau dồi Tâm linh Tỉnh thức.
Bốn Sự Thật Cao Quý. Tứ diệu đế, Chân lý của đau khổ, nguồn gốc của nó, sự chấm dứt nó và con đường đến chấm dứt đó, cung cấp như toàn bộ cấu trúc của lý thuyết và thực hành của đạo Phật.
Bốn Suy Niệm Làm Chuyển Tâm. Sự thiền định về giá trị và sự hiếm có của cuộc sống làm người với nhàn rỗi và thuận lợi, về cái chết và vô thường, bản tánh không thỏa mãn của vòng sinh tử và luật nhân quả đi đôi với hành động và các hậu quả của nó.
Năm gia đình Phật. Gia đình các vị Phật: Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), Ratnasambhava (Bảo Sanh), Amitabha (A Di Đà), Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu), và Vairocana (Tỳ Lô Giá Na), tương ứng với năm kết tập (ngũ uẩn) tâm sinh lý của ý thức, nhận biết, cảm nhận, hình thành tâm thức và thân tướng (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) trong khía cạnh thanh tịnh của chúng.
Sự đáp ứng và sám hối (Tạng,bskang bshags). Một nghi thức thực hành trong đó hành giả cúng dường đến bổn tôn (đáp ứng), với khẩn cầu được bảo vệ khi hành giả thú nhận các vi phạm (sự sám hối).
Cúng dường Ganachakra. Một nghi lễ cúng dường tantric.
Gandhava. (Càn Thát Bà), Các tiên nữ hay các nhạc công của cõi trời.
Garuda. Kim Xí Điểu, một loại chim thần thoại, hoàn toàn trưởng thành khi mới nở và có năng lực phi thường.
Đại Viên Mãn (Tạng, rDzogs chen). Giáo lý cao nhất của phái Nyingma Phật giáo Tây Tạng, bao gồm ba bộ hướng dẫn được biết như Bộ Tâm, Bộ Mở Rộng và Bộ Hướng dẫn Thiết thực.
Guru yoga. Thực hành thiền định trong đó hành giả tự mình hiến dâng đến vị thầy tâm linh như cùng bản tánh với tất cả chư Phật.
Lắng nghe, suy nghĩ và thiền định. (Văn, Tư, Tu) Ba giai đoạn thông thường của thực hành đạo Phật, mỗi thứ thành công làm phát sinh một hiểu biết và trí tuệ ở cấp sâu hơn.
Hinayana. Tiểu Thừa, cái “nhỏ hơn” hay “cá nhân”, thừa của lý thuyết và thực hành Phật giáo, chủ yếu nhắm đến mục tiêu cuối cùng là giải thoát chính hành giả khỏi vòng sinh tử.
Kinh mạch kati pha lê rỗng. Kinh mạch của trí tuệ bổn nguyên định vị trong ngực của tất cả chúng sanh.
Sự không đồng nhất. Không có tự tánh vốn sẵn, hoặc vật chất. Điều này có hai loại, không đồng nhất của cá nhân và không đồng nhất của hiện tượng, ám chỉ việc thiếu bản chất tự-hiện hữu của con người và của hiện tượng khác theo thứ tự định sẵn.
Jnayakaya. Cũng được biết như Svabhavakaya, theo diễn dịch phổ biến của Nyingma là ám chỉ đến tính bất khả phân của Nirmanakaya, Sambhogakaya và Dharmakaya (Hóa Thân, Báo Thân và Pháp Thân).
Kriya. Theo sự phân loại của Nyingma, là bộ căn bản nhất của ba bộ ngoại tantra, hai bộ kia là Upaya và yoga.
Lama (Phạn, guru). Vị thầy tâm linh hoặc bất cứ vị tổ tâm linh nào được tôn kính.
Giai đoạn Nhảy-vọt (Tạng, thod rgal ba). Thứ hai của hai giai đoạn trong thực hành Đại Viên Mãn, nhắm đến việc sinh ra nhanh chóng sự hiện diện tự phát, đầy đủ của Phật tánh chính hành giả.
Mara. Ma vương hoặc ảnh hưởng ma quỷ tạo chướng ngại cho sự chín muồi tâm linh. Bản tánh thực tế của “những ma quỷ” như vậy là chính tâm thức phiền não của con người, như tham luyến, sân hận và rối loạn, mặc dù chúng cũng có thể xuất hiện ở bên ngoài.
Mahayana. Đại Thừa, cái “to lớn” hay “phổ quát” thừa của lý thuyết và thực hành Phật giáo, hướng đến việc đạt được Tâm linh Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Mandala. 1) Một biểu tượng, biểu tượng đại diện của vị bổn tôn đã chọn với cung điện để trụ và môi trường chung quanh, được quán tưởng bởi hành giả để thăng hoa cảm giác của họ về nhận dạng cá nhân và kinh nghiệm của thân, tâm và chung quanh họ. 2) Một biểu hiện, biểu tượng đại diện của thế gian cùng với tất cả sự rộng lớn của một vị vua thế gian, cúng dường đến các đối tượng quy y của hành giả.
Mantradhara (Tạng, sngags ‘chang) nghĩa đen là “người duy trì mantra”, người đã tinh thông khắp các thực hành tantra của đạo Phật.
Núi Meru. Núi Tu Di, ngọn núi thần thoại cao vượt nhất ở trung tâm biểu tượng hóa của thế giới chúng ta, được bao quanh bởi bốn châu lục.
Tự-tâm (Tạng, sems nyid). Nghĩa đen, “sự tỉnh thức,” đây là bản tánh cốt tủy của tâm, đồng nhất với Phật tánh của hành giả.
Dòng-tâm thức (Tạng, rgyud). Tâm thức tương tục của một cá nhân, hiện lên như việc đang xảy ra, luôn thay đổi bất thường suốt quá trình của một kiếp sống và từ kiếp này sang kiếp tới.
Mudra. Thủ ấn, nghĩa đen, “ấn”, đó là biểu tượng tư thế hay chuyển động, thường của hai tay, được thực hành trong thiền định hay nghi lễ thực hành. 2) một phối ngẫu cùng với hành giả thực hành trong giai đoạn nâng cao của thiền định tantric.
Chín yana. Chín “thừa – xe” của thực hành tâm linh, theo sự phân loại của phái Nyingma bao gồm Srvakayana (Thanh Văn Thừa), Pratyekabuddayana (Độc Giác Phật – Duyên Giác Thừa), Bodhisattvayana (Bồ Tát Thừa), Kriya, Upaya, Yoga, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga.
Nirmanakaya. Hóa Thân, có thể sử dụng hơn của hai Rupakaya (Sắc Thân), hay “Thân Hóa Hiện” của một vị Phật (vị khác của Sambhogakaya), biểu hiện trong mọi cách để dẫn dắt chúng sanh đến giải thoát và tâm linh tỉnh thức.
Phi-khách quan. Không xuất hiện như một đối tượng trong phạm vi thói quen, cụ thể hóa cấu trúc chủ thể/đối tượng của tri giác và khái niệm nhận biết; không có tự tánh như một đối tượng.
Paramitayana. Nghĩa đen, “Thừa của sự Hoàn Thiện,” ám chỉ Sáu Hoàn Thiện của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ, hình thành cấu trúc của bồ tát đạo của cuộc sống và con đường đến Tâm linh Tỉnh thức; giống với Bodhisattvayana.
Parinirvana. Giải thoát cao nhất của một vị Phật, được nói là xảy ra sau khi chết.
Pranayama. Một hệ thống kỹ thuật thiền định để kiểm soát hơi thở như phương tiện điều chỉnh năng lượng sự sống trong thân, lần lượt ảnh hưởng đến trạng thái tâm thức của hành giả.
Pratyekabuddha. Độc Giác Phật, người đạt được giải thoát khỏi vòng sinh tử một mình, không dựa trực tiếp vào một vị thầy.
Preta. Ngạ quỷ, tinh linh của sáu bộ chúng sanh trong vòng sinh tử, được đặc tính hóa với sự đói, khát và thèm muốn mãnh liệt.
Lỗ mở preta. Lỗ mở trong vùng bộ phận sinh dục, qua đó ý thức của một người xuất ra khỏi cơ thể vào lúc chết nếu người đó sắp nhận tái sanh như một ngạ quỷ.
Rsi. Một vị tổ thành tựu cao trong thực hành thiền định.
Rakta. Dịch tinh chất đỏ nhận được từ người mẹ, thường định vị ở dưới rốn, nhưng lại đi lên khi người ta chết và trong giai đoạn nhập định sâu.
Bodhicitta trắng và đỏ. Hai loại dịch tinh chất, hay “giọt,” thường định vị ở đỉnh đầu và dưới rốn một cách tương ứng, rồi hội tụ tại ngực trong tiến trình cận tử và trong nhập định sâu.
Rupakaya. “Sắc Thân” của một vị Phật, gồm Báo Thân và Hóa Thân, đối tác với Pháp Thân.
Samadhi. Sự thiền định tập trung đưa đến trình độ khác thường của sự chú ý ổn định và trong sáng.
Samaya. Giới nguyện tantric đã thọ khi tiếp nhận quán đảnh tantric, hình thành nền tảng cho thực hành của Vajrayana.
Sanbhogakaya. Báo Thân, thân vi tế hơn của hai loại Rupakaya, hay “thân hóa hiện” của một vị Phật, xuất hiện chỉ với hành giả cao cấp hơn.
Sangha. Tăng Đoàn, nói rộng ra là cộng đồng các hành giả của Giáo Pháp hay đặc biệt hơn là cộng đồng của các tăng, ni đã thọ cụ túc giới, hoặc cộng đồng của chư bồ tát.
Siddha. Thành tựu giả, một người đã thành tựu một hay nhiều siddhi thông thường hay phi thường.
Siddhi. Một khả năng siêu nhiên, trong đó có một số của thế gian, bao gồm khả năng đi trên nước, bay trong bầu trời v.v... còn cái khác là xuất thế gian là sự thành tựu của Tâm linh Tỉnh thức viên mãn.
Sáu hoàn thiện. Sự hoàn thiện của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, cung cấp cấu trúc của bồ tát đạo đến sự tỉnh thức.
Tâm linh Tỉnh thức. Về mặt chân lý tương đối, là khao khát đạt được Tâm linh Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh; và về mặt chân lý tuyệt đối là sự nhận biết của bản tánh tối thượng của thực tại.
Sravaka. Nghĩa đen “người nghe,” ám chỉ đệ tử gián tiếp hay trực tiếp của Đức Phật, dấn thân trong thực hành của đạo Phật để đạt giải thoát cá nhân khỏi vòng sinh tử.
Stupa. Tháp, nơi để thánh tích chứa các đồ vật linh thiêng như những gì còn lại của một bậc giác ngộ cao; một nơi để thánh tích như vậy cũng được xem là biểu tượng tiêu biểu cho tâm Đức Phật.
Tantra. Con đường bí mật của Phật giáo, đưa đến việc “nhận kết quả như con đường,” có nghĩa hành giả tưởng tượng hành động theo cách cư xử của thân, khẩu và ý của một vị Phật như một phương tiện để đạt được Tâm linh Tỉnh thức; một luận thư trình bày lý thuyết và thực hành của Vajrayana (Kim Cương Thừa).
Tathagata. Như Lai, một tính ngữ của Đức Phật, nghĩa đen “Đấng Như Lai,” bậc đã giác ngộ chân lý tối thượng.
Terma. Kho tàng của hướng dẫn tâm linh, có hai loại chính: kho tàng đất; được chôn dấu trong đất, và kho tàng tâm được chôn dấu trong tâm thức của vị tổ và được phát hiện vào thời điểm thích hợp và hiển lộ cho nhân loại.
Thangka. Tranh cuộn Tây Tạng, hường mô tả một hay nhiều bổn tôn hoặc mandala.
Ba hiện thân. Dharmakaya, Sambhogakaya và Nirmanakaya.
Ba độc. Tham luyến, sân hận và rối loạn, là ba phiền não nền tảng của tâm.
Ba yana. Hinayana, Mahayana và Vajrayana.
Nguồn Giáo Pháp ba-góc. Sự quán tưởng ánh sáng tứ diện ở dưới rốn trong các thiền định tantric nào đó.
Torma. Một nghi lễ cúng dường, thường làm bằng bột lúa mạch nướng trong dạnh hình tròn được dâng cúng trong nghi lễ tantric.
Tulku. Hóa thân của một người trong đời trước hoặc các kiếp trước đã hoàn toàn đạt được sự chín muồi tâm linh cao độ.
Upaya. Bộ giữa của ngoại tantra theo phạm trù hóa của phái Nyingma.
Vajra. Một quyền trượng được sử dụng trong nghi lễ tantric, biểu tượng hóa phương tiện thiện xảo, lòng bi, và cực lạc bất biến.
Vajrayana. Thừa cao nhất của ba yana, hay thừa tâm linh, đã chiếm ưu thế trong Phật giáo Tây Tạng.
Huynh đệ vajra. Nam và nữ cùng nhận quán đảnh tantric, do đó được gồm chung là “gia đình” tantric.
Đấng chiến thắng. Một tên khác của chư Phật, chỉ ra sự chiến thắng mọi loại phiền não và che ám tâm thức.
Vidyadhara. Nghĩa đen “người nắm giữ trí tuệ,” (Trì Minh) ám chỉ vị tổ tantric đã thành tựu cao.
Vinaya. Luật tạng. Kỷ luật đạo đức, đặc biệt cho tăng và ni Phật giáo.
Yaksa. Một bộ bán thiên, hoặc ma quỷ thường ở những nơi đi qua núi và thỉnh thoảng gây hại cho người sống trong vùng của họ nếu họ không được khuyên giải.
Yana. Thừa tâm linh trong Phật giáo, mang hành giả đến bờ bên kia của giải thoát và Tâm linh Tỉnh thức.

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/11/2019(Xem: 5625)
DẪN NHẬP Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giả có thể đạt được là quả vị A-La-Hán. Vì thế đường tu quan trọng của họ là A-La-Hán đạo. Khi đạt được quả vị này thì các ngài nhập Niết-Bàn. Khi còn thân, thì gọi là Hữu-Dư-Y-Niết-Bàn. Trong thời gian này các ngài đi giáo hoá chúng sanh. Khi bỏ thân, thì nhập Vô-Dư-Y-Niết-Bàn không tái sanh nữa.
07/10/2019(Xem: 5200)
Tật bệnh. Có bệnh phải uống thuốc đó là chuyện đương nhiên. Uống thuốc để chữa bệnh, để mau hết bệnh. Nhưng thuốc tốt, uống đúng thuốc, đúng liều lượng thì mới có khả năng lành bệnh. Đây, không còn là chuyện đương nhiên, mà là sự mong muốn, lòng khát khao. Ai cũng ước mong không có bệnh. Khi có bệnh mong được gặp thầy giỏi, uống đúng thuốc và sớm khỏi bệnh.
05/10/2019(Xem: 4154)
Một ông tăng tu Thiền tới hỏi hòa thượng: -Xin hòa thượng cho một câu ngắn gọn “Phật Là Gì?” để con tỏ ngộ và giảng dạy cho đại chúng. Hòa thượng đáp: - Phật là cơm.
05/10/2019(Xem: 5898)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe những lời bàn tán có tính cách phê phán như: "Nhân cách của ông A thật là hoàn hảo" hay "Tư cách người đó không ra gì...." hoặc "Sống sa đoạ quá làm mất cả nhân cách" v.v... và v.v... Vậy nhân cách là cái gì? Thông thường, người ta giải nghĩa Nhân là người, Cách là tư cách, là phẩm chất, là giá trị, là tư cách làm người... Như vậy Nhân cách là một thứ giá trị, phẩm chất đạo đức của mỗi con người được xây dựng và hình thành trong suốt thời gian con người đó tồn tại trong xã hội.
03/06/2019(Xem: 6371)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệ và từ bi mà chúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi. Theo Pema Chodron cho biết Thiền giúp chúng ta tự biết mình: những phần thô và những phần tế của chúng ta, tham, sân, si và trí tuệ. Lý do mà con người làm hại người khác, lý do mà hành tinh này bị ô nhiễm và con người và thú vật không sống khỏe mạnh, là vì hiện nay các cá nhân không biết, không tin hay không yêu thương đủ.
06/05/2019(Xem: 5713)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
24/02/2019(Xem: 8111)
Pancariyavaḍḍhi - Năm pháp tăng thịnh cao quí: 1. Saddhā - Đức tin, là niềm tin chân chánh với Tam bảo Phật Pháp Tăng, nhân quả nghiệp báo,... ta nên làm cho tăng trưởng thường xuyên. 2. Sīla - Giới hạnh, là đạo đức nền tảng của hàng phật tử, ta nên an trú vào sự thanh tịnh giới hằng ngày. 3. Suta - Đa văn, là sự học hỏi nghiên cứu trau giồi và phát huy kiến thức mà ta tích luỹ trở nên phong phú. 4. Cāga - Xả thí, là sự rộng lượng phóng khoáng với tâm hồn bao dung cởi mở hay giúp đở những hoàn cảnh khó khăn; là sự dứt bỏ lòng bỏn xẻn, keo kiệt, ích kỷ để mọi người hoan hỷ gần gũi thân thiện. 5. Paññā - Trí tuệ, là sự hiểu biết nhận thức đúng đắn về lý Tứ thánh đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên,... mà ta nên trau dồi thường xuyên.
15/01/2019(Xem: 4176)
Bạch Thầy Sám Hối là gì và sám hối có tiêu hết tội khổ không và sám hối như thế nào mới đúng cách? Đáp: Sám hối là biết xấu hổ, hối cải những tội lội của mình sau khi biết việc đó là sai lầm tội lỗi. Việc nhận ra các việc làm sai lầm tội lỗi đó là nhờ vào Trí Tuệ trong mỗi chúng ta. Nhưng nếu như chúng ta chưa đạt được Trí Tuệ như chư Phật hay Bồ Tát để biết được việc nào là đúng việc nào là sai lầm tội lỗi thì cần phải nhờ đến Phật Pháp soi rọi, đối chiếu các việc làm đó với lời dạy của Đức Phật mà đặc biệt là so sánh với 5 Tịnh Giới, 10 Thiện Giới. Nếu thấy phù hợp thì đó là việc làm thiện đưa đến Phước báu trong tương lai, nếu trái ngược thì biết đó là việc làm sai lầm tội lỗi đưa đến quả xấu trong tương lai.
07/09/2018(Xem: 4308)
Tất cả chúng sinh, đặc biệt là con người, có trí phân biệt giữa hạnh phúc và khổ đau, tốt và xấu, điều gì có hại và có lợi. Vì có khả năng nhận thức và phân biệt các loại cảm giác khác nhau nên chúng ta đều giống nhau, vì chúng ta đều muốn được hạnh phúc và không muốn khổ đau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567