Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh

20/06/201317:20(Xem: 7069)
10. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh

Dòng pháp Quán Thế Âm

10. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh

Ngọc Nữ

Nguồn: Ngọc Nữ (ghi chép)

Nghe Kinh Pháp Hoa và trì tụng, con được an ổn thân tâm. Nhưng để hiểu và hành thì con chưa đạt được điều ấy. Vấn đề phải tìm hiểu và quán, tu trong kinh là Tri Kiến Phật.

Tri Kiến Phật, đó là sự thấy biết của Phật đà. Đó là Trí huệ viên mãn tột cùng. Nói tất cả mọi người, mọi vật đều có Phật tánh, là nói tất cả chúng sanh đều sẽ được Tri Kiến Phật. Hay chúng sanh đều là Phật. Điều này con thật khó mà tin được. Vì sao? Vì con chưa thấy, chưa được, chưa ngộ phật Tánh–Phật Tri Kiến–nên không nhìn thực tế như nó vẫn thường hằng.

Như khi con buồn, tìm an ủi, quân bình cho tâm hồn trong sự chiêm ngưỡng tượng Phật. Ðau khổ ngập trong lòng nên trông tượng Ðức Di Lặc, con không "cảm" được từ tâm của Ngài. Vì tượng Di Lạc Bồ Tát là biểu tượng của pháp Hỷ, sự an ổn vô song về mặt tâm linh, điều cực kỳ xa cách với tâm trạng hiện tại của con. Con trông tượng Ðức Phật Tổ thấy Ngài không gần gũi trần gian, con nhìn tượng tạc vị Bồ Tát với nét thương cảm chúng sanh qua gương mặt đượm buồn, và nhận rằng, đích thật đây là "Phật của con". Con cảm thấy một mối giao cảm đặc biệt với vị ấy và mở lòng cầu nguyện. Thật ra Chư Phật vẫn đồng tâm thương xót chúng sanh chỉ vì kiến chấp của con mà Phật hóa chẳng đồng.

Ở nơi không hai mà lập các pháp là chư Phật tùy tâm địa của chúng sinh mà thuyết giảng. Với người thích giáo pháp Thanh Văn, Phật vì đó nói pháp ấy là Thanh Văn. Với người thích Ðại Thừa, Phật vì đó nói pháp ấy là Đại thừa. Nhưng đâu phải vì danh tự Tiểu thừa, Ðại thừa mà giáo pháp không cùng xuất sanh từ Phật tri kiến? Các pháp sai biệt ở văn tự, bản tánh vốn là sự giác ngộ của Phật, không hề có khác nhau. Vì thế muôn pháp đều dẫn đến Giác Ngộ, dù hàng thanh văn, không biết không hay Phật đã gieo Phật trí nơi mình.

Một người cư xử không phải với con, ức hiếp con, con thở than, buồn bã hay giận dữ. Tại sao? Tại sao? Con cần phải phản ứng lại sự việc trên như thế? Có phải vì trong con những ý niệm về ức hiếp, bất công... vẫn còn đầy dẫy, nên con cảm thấy sự bất công, tức là chính con cũng không khác người kia. Như thế, con có thật sự "tốt" hơn người kia, con là "Thiện" và họ là "Ác" không? Tuy con không hành Ác nghiệp, nhưng tâm không lìa ác, nên tất cả giai đoạn nhân quả của điều ác, vẫn diễn biến đầy đủ trong con. Đó là sự thấy biết chúng sanh.

Nếu trong cảnh tắng hội đó, đau khổ của con chuyển thành thuận cảnh, con sung sướng biết bao. Thế nghĩa là trong đau khổ có mầm hoan lạc. Hạnh phúc đến; sau khi vượt qua đau khổ là hạnh phúc có sự dự phần của trí Huệ. Trí Huệ là giai đoạn mở đầu Tri kiến Phật.

Trong một hoàn cảnh tuyệt vọng, con vẫn còn niềm tin vào điều vượt ngoài phạm trù của lý trí, sẽ xóa tướng tuyệt vọng mà con đang nhận biết rõ ràng. Niềm tin ấy khiến con niệm Phật cầu thoát khổ–cầu điều "kỳ diệu". Ðó chính là niềm tin vào Bản tánh thiện vẫn chi phối vũ trụ. Sợ hãi là tin vào sự chiến thắng của điều ác. Nếu có một sự tin tưởng tương đương vào điều thiện thì sợ hãi tiêu tan. Phải chăng giây phút cầu nguyện ấy, con vượt qua tướng thời gian nên vượt qua tướng sinh tử. Ðã nói vớì hiểm nguy, với tứ đại, với giả duyên, với tam nghiệp, rằng bất chấp sự cản trở của các ngươi, bất chấp sự trói buộc mà các ngươi đang giam giữ ta, ta vẫn tiến lên, tiến mãi về phía trước, về cảnh giới có tri kiến tuyệt đối sẽ giải thoát cho ta khỏi hoàn cảnh hiện tại. Ðó là vươn tới Phật và tri kiến Phật, như một phép mầu. Sẽ đưa con vào nước trí. Sự mầu nhiệm mà con mong cầu phải đến, vì bản thể của Phật vốn không hạn lượng, không tranh nên không gặp cảnh tranh luôn là thuận cảnh. Ðề Bà Ðạt Ða là Phật vì đã chỉ cho chúng sanh thấy Ðịnh lực cũa Phật Tổ. Đề Bà Đạt Ða là Phật vì đã phỉ báng Phật: Ghét Phật vì Phật là Phật. Hình ảnh của Phật, là hình ảnh mà ông chối bỏ–tức là ý niệm về Phật có trong ông. Người ta không thể phản đối một hình tượng không hề hiện hữu. Nghiệp chướng, chúng sanh kiến, ngăn trở Đề Bà Ðạt Ða cảm Phật, hoà nhập vào Phật, thấy Phật nơi mình. Nhưng Phật trong ông vẫn hiển hiện. Tại sao con lại nghĩ rằng ông ta "ghét" Phật mà không biết rằng ông chưa bao giờ không kính Phật? Ghét hay thương, chỉ là hai cách nhìn một tiền đề sẵn có.

Cách này hay cách kia là phương tiện diễn đạt, nên tướng ghét cũng như tướng thương kính mà thôi. Ðề Bà Ðạt Ða là Phật thị hiện làm Bồ Tát độ oán tắng.

Phải biết rằng mọi sự con vẫn cho là thuận nghịch từ chỗ đứng của con đều không đúng. Tâm con đem vào những phán đoán mà tự thể các hiện tượng hay pháp đó không có. Thí dụ: con vẫn cảm thấy mặt đất rất vững chắc. Tự bao kiếp vẫn cho rằng vòng tay của Ðất đáng tin cậy vô cùng. Nhưng hãy thử tưởng tượng, nếu mặt đất trở thành trong suốt thì bầu trời mênh mông, đáng sợ trên đầu, vẫn lại có dưới chân, con không có nơi trú ẩn an tâm. Con sẽ thấy chân lý Trời trên đầu, đất dưới chân trở thành nghịch lý. Nước chảy xuôi chỉ là giả tướng, hãy tìm tướng xuôi ngược nơi tâm, và luôn nhớ không thể tin vào con để quyết định chân tướng của sự vật.

Vì sao con phải lễ Phật? Vì Phật ở ngoài, không đãnh lễ vì Phật ở trong ư? Như thế vẫn chưa thấy Phật, đãnh lễ Phật mà không hướng vào đâu, không hướng về phía trước, không hướng về phía sau, không trên, không dưới, không phía trong, chẳng phải không phía trong. Lìa tướng quì, tướng đứng vào nơi vô biên, đó là ngộ nhập Phật Trị kiến.

Hoa sen mọc từ bùn nhơ, có mùi thơm ngào ngạt đó là nhờ mọc từ bùn mà có hương hay bản chất của sen là thơm? Từ nơi muội manh lại nảy điều cao quý, chính vì tánh của bùn vốn không nhơ, tướng bùn lầy là phương tiện cho hạt giống nảy mầm. Vì muốn chỉ tánh của bùn và sen là một nên hoa phải chấp tướng hiện hữu.

Nếu không muốn chỉ tánh ấy, thì vắng bặt tướng tịnh và bất tịnh, vắng bặt nói năng, tên gọi, không có tướng Thiện ác, chúng sanh và Phật. Tánh không tên ấy khi động thì hóa ra vũ trụ, không động thì vô hình, rắn hơn sắt đá tạm gọi là Tánh Không.

Ngộ Tánh Không của vạn vật là ngộ Phật tri kiến. Không ghét người xấu, không chuộng người lành, không ngại đau khổ, không ưa niết Bàn, với sức kham nhẫn vô biên, thề tận độ chúng sanh thành Chánh Gìác, tất cả chúng sanh chưa thành Phật thì con nguyện chưa thành Phật đó là pháp môn tự tu dẫn đến Tri kiến Phật. Có phát tâm như thế mới có thể hiểu kinh pháp Hoa, mới thật trì kinh Pháp Hoa. Đó chính là thật hành Diệu pháp.

Con hãy phát tâm.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/04/2020(Xem: 10202)
Thi thoảng, ta hay suy nghĩ về cái chết và sự mong manh của đời người như một người vừa trái qua một cơn thập tử nhất sinh. Những suy nghĩ đó sẽ tiếp thêm cho ta sức mạnh để dám bứt mình khói những điều phù phiếm. Nếu chỉ còn một ngày để sống, liệu ta có còn bon chen hối hả giành giật với đời, với người? Liệu ta có còn tỏ ra trì trệ, lười biếng, hời hợt với bản thân?
04/04/2020(Xem: 4541)
Nghĩ về sự yên lặng, chúng ta thường nghĩ đến sự cô đơn, đôi khi là sự thất thế, hoặc là những lúc tâm trạng rất không tốt. Nhưng với người theo tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng của chúng ta, những giờ phút yên lặng rất cần cho đời sống tâm linh trước những tiếng ồn của cuộc sống.
01/04/2020(Xem: 4007)
Truyện ngắn "Trong cốp xe" của TK Vĩnh Hữu được đăng trên Thư Viện Hoa Sen vào ngày 16/02/2020, có đoạn: ... "Anh chú tâm niệm Phật, đúng ra là niệm Chuẩn Đề đà-la-ni, chỉ để thêm đạo lực, thêm ý chí mà vượt qua thời khắc khó khăn thử thách, quên đi mệt nhọc thân xác..." Tác giả chỉ nhắc qua việc "niệm chú" thật ngắn, không diễn bày hay kể lể gì thêm, lướt qua thật nhanh để trở về với mạch truyện. Chắc rất ít người lưu tâm để ý đến chi tiết vô cùng huyền diệu này, vì đang bị cuốn hút theo dòng trôi của câu chuyện "hết xăng, dắt xe đi bộ".
30/03/2020(Xem: 3802)
Thái độ của chúng ta đóng một vai trò quan trọng trong đời sống và có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta sau này. Bởi vì, cuộc sống của chúng ta được định hình bởi suy nghĩ, Đức Phật dạy rằng: Suy nghĩ kiến tạo nên đời sống, làm chủ khổ vui ở đời. Vậy thì, muốn làm chủ cuộc đời, làm chủ số phận, ta phải hết sức cẩn trọng với những ý nghĩ của mình, luôn quan sát và làm chủ chúng.
29/03/2020(Xem: 5264)
Kinh Pháp Cú nói đến “Luật Nhân Quả”. “Nhân” nghĩa là nguyên nhân, là hạt, tức hạt giống sinh ra một vật hữu hình hay là sức mạnh sinh ra một vật vô hình. “Quả” là kết quả, là trái, tức là kết quả hữu hình hoặc vô hình của một hạt đã gieo trồng. Nhân là năng lực phát động, quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có nhân thì không có quả, nếu không có quả thì không có nhân. Định luật hiển nhiên này mọi người đều nhận thấy. Định luật nhân quả liên tục kéo dài vô cùng tận, như những lượn sóng chập chùng trên mặt đại dương.
20/03/2020(Xem: 5662)
Bát Chánh Đạo chỉ là một phần trong giáo lý của Đức Phật. Chỉ cần áp dụng tám bước này vào đời sống sẽ mang đến cho ta và mọi người được hạnh phúc. Qua bài Chuyển Pháp Luân của Đức Phật giảng tại vườn nai cho năm anh em ông Kiều Trần Như nghe. Trong đó Bát Chánh Đạo là chủ đề đầu tiên mà Đức Phật mở bài. Từ sự quan sát cuộc đời của Ngài qua những kinh nghiêm sống trong hai giai đoạn: Hưởng thụ lợi lạc, đam mê ái dục, danh lợi, quyền lực, trong cung điện. Sáu năm tu khổ hạnh mà không thấy kết quả gì.
20/02/2020(Xem: 4860)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được chư Tổ cho rằng đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
18/02/2020(Xem: 6134)
Đạo Phật là đạo đối trị với vô minh tức là đối trị với kẻ ngu si, dại khờ, nên Kinh Pháp Cú dành trọn một phẩm để đề cập đến hạng người này. Truyện tích kể rằng một cô gái rất đẹp và hiền thục, con một thương gia giàu có. Nước da cô như màu hoa sen xanh biếc nên cô có tên là Liên Hoa Sắc. Đến tuổi cập kê có quá nhiều vương tôn công tử đến xin hỏi cưới cô. Cô không ưng ai cả. Xuất gia làm ni cô, tinh tấn tu hành trong một căn lều giữa rừng. Một ngày cô ra khỏi rừng đi vào thành phố khất thực. Một kẻ bất lương vốn là con người cậu của ni cô, đem lòng yêu cô từ khi cô chưa đi tu, hắn lén vào rừng trốn dưới gầm giường. Khi cô trở về hắn hãm hiếp cô. Ngay sau đó khi hắn rời khỏi lều thời mặt đất nứt ra và tên gian ác bị đọa vào địa ngục.
13/01/2020(Xem: 4201)
Một chiều, dừng chân bên bờ suối, lữ khách chợt cảm nhận dường như nơi đây đã từng qua. Có phải hàng cây phong này, từng khẳng khiu trơ trụi lá mùa thu trước, đã thầm lặng gửi thông điệp cho nhân gian bằng tinh thần tự tin, không than khóc, dũng mãnh đứng chờ mùa đông lạnh lẽo tuyết băng, chắc chắn không xót thương những gì yếu đuối!
10/12/2019(Xem: 4543)
Tiết mùa đông bất ngờ về sớm khiến những nhành mai đang ra lá, chưa kịp nhận biết, vội nép vào nhau, thương cảm nhìn những đóa hồng tỷ muội run rẩy, mới nở đêm qua. Dọc theo bức tường ngoài hàng hiên, những khóm trúc nhẹ nhàng lay động, trấn an bụi hoa ngâu với những đóa nhỏ li ti, rằng mặt trời đang lên, chúng ta vẫn đồng hành dù ta xanh hay vàng, dù em tươi hay héo, chỉ là ngoại hình luân chuyển mà thôi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567