Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

B. Chương 2: Dịch Giải Nghi Thức Tụng Bồ tát Giới Phạm võng

15/04/201311:48(Xem: 9041)
B. Chương 2: Dịch Giải Nghi Thức Tụng Bồ tát Giới Phạm võng
Chương 2: Dịch Giải Nghi Thức Tụng Bồ tát Giới Phạm võng

Trước khi tụng, vị tụng giới lạy và quì mà thưa: Con là Tỳ kheo XX, kính bạch Đại đức tăng, Đại đức tăng bảo con tụng giới, nhưng con e có sự lầm lẫn trong khi tụng, vậy kính xin Đại đức tăng từ bi chỉ bảo cho con.

Đây là lời tác bạch trước khi đi vào nghi thức, và là lời của vị Tăng sai tụng giới. Nếu tụng giới là vị thượng tọa trong buổi bố tát thì không cần tác bạch lời này. Điều kiện của sự tụng giới là tụng rõ ràng, và tụng ở đây là đọc một cách trang trọng, chứ không phải tụng như tụng kinh. Tụng rõ ràng là âm thanh rõ ràng, âm điệu đúng với mạch lạc giới văn.

Nghi thức tụng Bồ tát giới có 5 tiết.

Tiết 1: Qui Kính Khuyến Khích

Chúng Bồ tát giới lắng nghe!

Qui y kính lạy

đức Lô Xá Na,

và Kim cang Phật

khắp cả mười phương;

lại lạy phân thân

đức Lô Xá Na

là ngàn trăm ức

các đức Thích Ca.

Nay tôi kính tụng

về Bồ tát giới

mà đại cương là

ba loại tịnh giới;

chúng Bồ tát giới

hãy cùng lắng nghe!

Giới như ngọn đèn

đã sáng lại lớn,

có thể xua tan

bóng tối đêm dài;

giới như đài gương

trong sáng quí báu,

hiện rõ các pháp

đủ cả không sót;

giới lại y như

ngọc báu ma ni,

tuôn ra của cải

giúp kẻ khốn cùng.

Siêu thoát thế gian,

chóng thành Phật đà,

làm được như vậy

giới này hơn cả!

Vì lý do ấy

chúng Bồ tát giới

cần phải nỗ lực

kính cẩn mà giữ!

Đoạn chỉnh cú này lấy của Bồ tát giới Du dà, do ngài Đàm Vô Sấm dịch, nội dung kính Phật kính Giới và khuyến khích kiên trì. Kim cang Phật là các vị sau kim cang đạo thì phá dị thục thức, chứng bất hoại tánh, tức các vị viên mãn báo thân như đức Lô Xá Na. Các câu 5 - 8 là đổi cho đúng trường hợp Bồ tát giới Phạm võng. Trong đó câu là ngàn trăm ức có nghĩa một ngàn và một ngàn lần trăm ức. Nếu không đổi mà theo chính văn, thì phải dịch "lại xin kính lạy luận chủ Du dà, là Phật đương lai Từ thị Thế Tôn". Ba loại tịnh giới là "kết mọi giới pháp lại làm 3 môn: nhiếp thiện pháp giới là tám vạn bốn ngàn pháp môn; nhiếp chúng sinh giới là từ bi hỷ xả phổ cập chúng sinh, làm cho tất cả đều được an lạc; nhiếp luật nghi giới là mười giới pháp nặng làm chính yếu" (Anh lạc, Chính 24/1020).

Tiết 2: Sách Tiến Tu Tập

Chư đại đức, hôm nay bốn tháng của mùa xuân đã qua mất nửa tháng mà chỉ thiếu một đêm, còn lại chỉ thừa một đêm và ba tháng rưỡi. Già bịnh đã gần, Phật pháp sắp ẩn. Chư đại đức, và ưu bà tắc ưu bà di, muốn được đạo quả, các vị phải nhất tâm nỗ lực mà tinh tiến. Tại sao, vì đến như chư Phật cũng phải nhất tâm nỗ lực mà tinh tiến mới thành tựu vô thượng Bồ đề, huống chi những kẻ khác đang còn tu tập các thiện pháp khác. Các vị nghe như vậy thì trong lúc còn khỏe mạnh phải nỗ lực mà siêng tu thiện pháp, đâu được không cấp tốc cầu đạo mà đợi đến tuổi già. Đợi đến tuổi già là các vị còn muốn vui thú nỗi gì?

Ngày nay đã qua,

mạng sống cũng bớt,

như cá thiếu nước,

đâu có vui gì!

Đoạn này trừ 4 câu chỉnh cú cuối cùng, toàn lấy của giới bản Hữu bộ, nội dung nói sự vô thường để thúc dục cấp bách tu tập. Mùa xuân mới hết nửa tháng, còn đến 3 tháng rưỡi, nhưng không nói mới hết, còn đến, mà nói đã qua mất, chỉ còn lại, là dụng ngữ có ý. Sau đây là những chỗ cần ghi chú.

Ấn độ có 3 mùa, mùa xuân từ 16/12 đến 15/4, mùa hè từ 16/4 đến 15/8, mùa đông từ 16/8 đến 15/12. Tháng của Ấn độ lấy trăng bắt đầu tàn làm đầu tháng (tức đêm 16 mỗi tháng âm lịch) và lấy trăng thật tròn sáng làm cuối tháng (tức đêm rằm mỗi tháng âm lịch), không như âm lịch trăng bắt đầu có là đầu tháng, trăng đã tối hẳn là cuối tháng. Nhưng nửa tháng trăng sáng và nửa tháng trăng tối thì như nhau: nói theo ngày âm lịch thì 1 15 là trăng sáng, 16 30 hay 29 là trăng tối. Bố tát tụng giới thì nửa tháng 1 kỳ, cử hành vào ngày cuối cùng nửa tháng (tức rằm và ba mươi hay hâm chín) và thường cử hành ban ngày, như vậy còn 1 đêm mới hết nửa tháng; 1 đêm ấy đối với nửa tháng trước là thiếu mà đối với nửa tháng sau là thừa. Lời trong tiết 2 này là nói trong kỳ bố tát tụng giới đầu năm lịch Ấn, tức cuối năm âm lịch. Những kỳ sau đó có 4 chỗ phải đổi mà ai cũng phải biết. Chỗ 1, bốn tháng phải thêm "và 1 tháng nhuận" nếu có tháng ấy; nhưng tháng nhuận ấy vẫn gọi theo tháng chính chứ không gọi riêng. Chỗ 2, mùa xuân tùy đó mà đổi: 16/4 15/8 đổi nói mùa hạ, 16/8 15/12 đổi nói mùa đông. Chỗ 3, nửa tháng tùy đó mà đổi theo bảng kê dưới đây, kê theo ngày tháng âm lịch cho dễ đổi, và chỉ lấy mùa xuân làm mẫu, 2 mùa hạ và đông so theo mà đổi.

hết tháng chạp: nửa tháng

rằm tháng giêng: một tháng

hết tháng giêng: một tháng rưỡi

rằm tháng hai: hai tháng

hết tháng hai: hai tháng rưỡi

rằm tháng ba: ba tháng

hết tháng ba: ba tháng rưỡi

rằm tháng tư: bốn tháng

Chỗ 4, ba tháng rưỡi thì tùy đó mà đổi theo bản kê dưới đây, cũng kê theo ngày tháng âm lịch và chỉ lấy mùa xuân làm mẫu.

hết tháng chạp: ba tháng rưỡi

rằm tháng giêng: ba tháng

hết tháng giêng: hai tháng rư���i

rằm tháng hai: hai tháng

hết tháng hai: một tháng rưỡi

rằm tháng ba: một tháng

hết tháng ba: nửa tháng rằm

tháng tư: thừa một đêm

Tiết 3: Làm Phương Tiện Trước

Tăng tụ tập không?

Tăng hòa hợp không?

Tăng tụ tập hòa hợp để làm gì?

Những người chưa thọ Bồ tát giới, hay thọ mà không thanh tịnh, đã ra khỏi đây chưa?

Có bao nhiêu người thọ Bồ tát giới không đến tụ tập mà có dặn nhờ nói muốn và thanh tịnh?

Đây là kiểm điểm Tăng chúng, chuẩn bị và quyết định cho sự bố tát tụng giới cử hành được hay không. Sự kiểm điểm này, như vậy, rất quan trọng, và chỉ quan trọng cho Tỳ kheo tăng hay Tỳ kheo Bồ tát tăng.

Kiểm điểm bằng 5 câu hỏi, nhưng cần nhất là 2 câu đầu. Tăng chúng ở một chỗ, khi kiết ma bố tát tụng giới, phải đầy đủ 2 yếu tố thì việc ấy mới thành, ấy là tụ tập đông đủ, không ai vắng mặt mà không nói muốn và thanh tịnh; là hòa hợp với nhau, không ai tụ tập để chống phá. Nói cách khác, muốn kiết ma bố tát tụng giới thì Tăng chúng ở một chỗ phải thân và tâm cùng họp lại và ưng muốn; thân không họp lại mà tâm ưng muốn thì được, thân họp lại mà tâm không ưng muốn thì hỏng.

Nói muốn và thanh tịnh là dặn nhờ một hay hơn một vị khác, bạch với Tăng chúng, rằng mình ưng muốn việc kiết ma bố tát tụng giới và mình cũng thanh tịnh. Như vậy chỉ được phép nói muốn và thanh tịnh với lý do vì bận việc Tam bảo, vì bịnh hay vì coi bịnh, và với điều kiện là trong nửa tháng vừa qua không có phạm giới (mình tự biết không phạm giới, Tăng chúng cũng không ai thấy, nghe hay nghi mình phạm giới). Lời dặn nhờ có thể nói thông thường như sau, "Bạch đại đức, tôi là Tỳ kheo XX, vì lý do XX nên không thể tụ tập kiết ma bố tát tụng giới, nhưng đối với việc ấy tôi ưng muốn, và tôi cũng thanh tịnh. Xin nhờ đại đức bạch lại với Đại đức tăng như vậy". Dặn nhờ như vậy, nếu không nói được thì có thể ra dấu. Lời bạch lại cũng có thể nói thông thường như sau, "Bạch đại đức tăng, con là Tỳ kheo XX, có nhận lời dặn nhờ của Tỳ kheo XX, vắng mặt vì lý do XX, nhưng nửa tháng vừa qua vị ấy không có phạm giới. Vị ấy dặn nhờ con bạch lại với Đại đức tăng rằng, đối với việc kiết ma bố tát tụng giới hôm nay của Đại đức tăng, vị ấy nói muốn và thanh tịnh".

Cả 5 câu hỏi là của vị tụng giới, người trả lời là vị tri sự hay vị nào biết rõ tình trạng của Tăng chúng cùng ở một chỗ. Câu 1, không có ai vắng mặt, ai vắng mặt có nói muốn và thanh tịnh, thì trả lời "Tăng tụ tập". Câu 2, không có ai tụ tập với dụng ý để phá, cãi, thì trả lời "Tăng hòa hợp". Câu 3, trả lời "Để kiết ma bố tát tụng Bồ tát giới Phạm võng". Câu 4, có thì bảo ra và trả lời "Người chưa thọ Bồ tát giới, hay người thọ rồi mà không thanh tịnh, đã ra cả rồi"; nếu không có thì trả lời "Trong Tăng chúng đây không có người chưa thọ Bồ tát giới hay thọ rồi mà không thanh tịnh". Câu 5, có ai dặn nhờ nói muốn và thanh tịnh thì người được dặn nhờ bước ra mà bạch lại, không thì trả lời "Trong Tăng chúng đây không có người thọ Bồ tát giới không đến tụ tập mà có dặn nhờ nói muốn và thanh tịnh".

Tiết 4: Lời Tựa Mở Đầu

Chư Phật tử, hãy chắp tay lắng nghe. Nay tôi sắp nói đến lời mở đầu giới pháp rộng lớn của chư Phật, các vị tụ tập, yên lặng mà lắng nghe. Và tự xét có tội lỗi thì phải sám hối; sám hối thì yên vui, không sám hối thì tội lỗi càng sâu nặng. Không có tội lỗi thì yên lặng; do sự yên lặng ấy mà tôi biết các vị thanh tịnh.

Chư đại đức, và ưu bà tắc ưu bà di, hãy nghe cho kỹ. Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, trong thời kỳ Phật pháp cuối cùng, càng phải tôn kính Ba la đề mộc xoa. Ba la đề mộc xoa là giới pháp này đây. Phụng trì giới pháp này thì như đêm tối mà gặp ánh sáng, như nghèo nàn mà được vàng ngọc, như bịnh tật mà được lành mạnh, như tù đày mà thoát lao ngục, như đi xa mà được về nhà. Phải biết giới pháp này là đức thầy cao cả của các vị. Đức Thế Tôn còn ở đời cũng không khác gì giới pháp này.

Lòng sợ tội lỗi khó mà sinh được, tâm có đức lành khó mà phát ra. Nên trong khế kinh đã dạy:

Đừng khinh tội lỗi nhỏ,

cho là không tai họa;

giọt nước tuy là ít,

chảy mãi đầy hồ lớn.

Tội lỗi gây chốc lát,

họa ở vô gián ngục;

một khi mất thân người,

muôn kiếp khó được lại.

Sự khỏe đẹp không bền,

qua mau như ngựa chạy;

mạng người vốn vô thường,

quá hơn nước núi đổ:

hôm nay dẫu còn đó,

ngày mai khó bảo tồn.

Các vị phải nhất tâm mà nỗ lực tinh tiến, cẩn thận đừng giải đải, đừng biếng nhác, đừng ham ngủ, đừng phóng ý. Thâu đêm cũng phải tập trung tâm ý lại mà tưởng niệm Phật pháp tăng. Đừng để đời mình trôi qua một cách trống rỗng, mệt nhọc một cách vô ích, để rồi sau đó phải hối hận sâu xa.

Các vị hãy nhất tâm, kính cẩn mà phụng hành cho thật chính xác đối với giới pháp này. Phải học như vậy.

Lời tựa này có trong Chính 24/1003. Có lẽ trước khi có nghi thức, sự mở đầu tụng Bồ tát giới Phạm võng chỉ có lời tựa này mà thôi. Lời tựa này kết hợp cả kinh Di giáo và Pháp cú, nhưng không có gì gượng ép vì chắp vá và biến thể như các tiết trước và sau tiết này. Lời tựa này được soạn khá sớm, vì câu thời kỳ Phật pháp cuối cùng, chính văn vốn là thời kỳ Phật pháp tương tự. Phật pháp tồn tại có 3 thời kỳ: nguyên chất (chánh pháp) tương tự (tượng pháp) và cuối cùng (mạt pháp). Mỗi thời kỳ có 1000 năm. Nay kỷ nguyên Phật giáo đã 2527 năm, là đã hơn một nửa thời kỳ cuối cùng.

Vô gián ngục là địa ngục kết quả của 5 tội nghịch (cũng gọi là 5 tội vô gián, 5 nghiệp vô gián). Năm tội nghịch là giết cha, giết mẹ, giết La hán, làm chảy máu thân Phật, phá Tăng hòa hợp. Thêm giết Hoà thượng và giết Xà lê vào nữa thì gọi là 7 tội nghịch, được nói đến trong giới nhẹ 40. Nhưng xét 5 tội nghịch còn như kinh Địa tạng nói, cho người xuất gia nhiều hơn nằm trong phẩm 3 của kinh ấy. Ở đó, sự phỉ báng Tam bảo và khinh thường kinh pháp cũng là làm chảy máu thân Phật. Trong 5 tội nghịch, tội phá Tăng hòa hợp nặng nhất, xét ra vì lẽ tội này làm rã Tăng hòa hợp mà thực chất là biệt lập giáo phái để làm giáo lãnh. Năm tội nghịch còn 1 pháp số nữa, của kinh Ni kiền tử: Một là phá hủy chùa tháp, đốt phá kinh tượng, chiếm đoạt của Tam bảo. Hai là phỉ báng tiểu thừa và đại thừa, phá hoại và trở ngại, làm cho các pháp ấy khuất lấp. Ba là bắt bớ, tù đày, tra tấn, hành hung, khinh khi, làm nhục, buộc hoàn tục hay hại tính mạng đối với người xuất gia. Bốn là làm 1 trong 5 tội nghịch thông thường (mà đã nói ở trên). Năm là bài bác nhân quả thiện ác, thường làm 10 ác nghiệp, không sợ đời sau, tự làm và xúc sử người làm mà ngoan cố không bỏ.

Kết quả của 5 tội nghịch là đọa vô gián ngục. Vô gián là không cách hở. Tuệ viễn đại sư, trong Đại thừa nghĩa chương, cuốn 7, nói 5 tội nghịch làm cho đọa vô gián ngục thì có 4 sự không cách hở. Một, nhân quả không cách hở: thân này chết rồi thì thân kế tiếp đọa vô gián ngục mà chịu liền quả báo của 5 tội nghịch, không có đời nào hay nghiệp gì làm cho cách hở nữa. Hai, chịu khổ không cách hở: đọa vô gián ngục thì trong một thời kỳ dài, khổ khổ liên tục, không có sự vui nào xen vào làm cho cách hở. Ba, sinh mạng không cách hở: đọa vô gián ngục thì trong một thời kỳ dài, chết đi sống lại liền liền mà sinh mạng không chết hẳn. Bốn, thân hình không cách hở: đọa vô gián ngục thì ai cũng thấy thân mình tràn đầy cả ngục, không chướng ngại cách hở lẫn nhau. Bốn sự này bao gồm đủ cả 5 sự đã nói trong phẩm 3 của kinh Địa tạng. Trong 4 sự, sự đầu rất quan trọng, Thành thật luận và Câu xá luận đều nói, chứng tỏ 5 tội nghịch rất khó cầu cho siêu độ.

Một khi mất thân người muôn kiếp khó được lại là nói thân người rất quí. Nói theo trường hợp Bồ tát giới Phạm võng thì có thân mới thọ và trì được giới pháp ấy. Do vậy, đem thân người làm những việc mệt nhọc một cách vô ích, có hại, đã đành đáng trách, nhưng lối thuyết pháp thóa mạ, khinh thị thân thể, cũng không phải là thái độ hợp ý với Phật.

Tiết 5: Chất Vấn Thanh Tịnh

Chư đại đức, hôm nay là ngày mười lăm của nửa tháng trăng tối, ngày bố tát tụng Bồ tát giới. Các vị hãy nhất tâm mà nghe cho khéo. Ai có lỗi thì xin nói ra, ai không lỗi thì xin yên lặng. Yên lặng nên biết chư vị đại đức thanh tịnh, có thể tụng Bồ tát giới. Như vậy là tôi đã nói lời mở đầu Bồ tát giới. Nay xin hỏi, chư đại đức, trong các vị có thanh tịnh cả không? Chư đại đức, các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng yên lặng. Việc ấy tôi xin ghi nhận như vậy.

Đây là biến thể lời tác bạch kiết ma bố tát tụng giới mà thành sự chất vấn thanh tịnh. Nay xin hỏi, chư đại đức, trong các vị có thanh tịnh cả không, là hỏi trong nửa tháng vừa qua, có ai phạm giới không. Không ai phạm giới mới có thể tụng giới.

Việc này tôi xin ghi nhận như vậy, chính văn là thị sự như thị trì. Chữ trì nghĩa đen là nắm giữ, ở đây là nắm giữ trong trí, tức là nói về sự ghi nhớ, về ký ức, và ở đây là xác nhận. Nên chữ ấy đi đôi với chữ thọ thì thọ trì nghĩa là tiếp nhận và ghi nhớ. Nghĩa chữ trì như vậy nên đã được cắt nghĩa là liễu đạt bất vong (thấu hiểu không quên). Thị sự như thị trì, dịch sát là việc ấy tôi nắm chắc như vậy (nghĩa là hiểu và nhớ như vậy). Nhưng chữ nắm chắc rất nên chuyển ra chữ ghi nhận cho sát việc và dễ hiểu hơn. Chủ từ tôi phải thêm, vì đây là lời của vị tụng giới. Nói giản dị, vị tụng giới nói, "các ngài thanh tịnh, vì các ngài yên lặng: việc này tôi xin ghi nhận như vậy".

Tiết này có vài chỗ cần chú ý. Một, hết tháng thì nói trăng tối, rằm thì nói trăng sáng; trăng tối thì ngày 15 có khi phải đổi ra 14 nếu tháng ấy thiếu. Hai, câu nay tôi xin hỏi, chư đại đức, trong các vị có thanh tịnh cả không, phải nói 3 lần, sau mỗi lần phải đợi vài ba giây.

Tụng giới xong, vị tụng giới đứng dậy mà thưa, Bạch Đại đức tăng, con là Tỳ kheo XX, xin kính tạ lỗi Đại đức tăng; Đại đức tăng bảo con tụng Bồ tát giới, nhưng thân miệng ý của con không tinh cần, tụng giới văn không thông suốt, làm cho chư vị ngồi lâu hơn lên, không khỏi phát phiền. Con xin chư vị từ bi hoan hỷ cho con.

Cũng như lời tác bạch đầu tiên, lời tác bạch này, nếu vị tụng giới là thượng tọa trong buổi bố tát thì không cần nói.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/04/2022(Xem: 3863)
Phật Mẫu Chuẩn Đề ngự trên đài sen Vầng hào quang ánh tỏa ra rực rỡ Phật, Pháp,Tuệ nhãn chiếu soi cứu độ Chúng sanh khỏi kiếp khổ nạn đau thương
23/03/2022(Xem: 3437)
Kính lạy Đức Bồ Tát biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn Hình thành nội hàm tín ngưỡng tinh thần BI, TRÍ, NGUYỆN, HẠNH của Phật giáo Bắc Tông (1) Điểm đặc sắc ...Đại thừa tâm lượng rộng lớn !
20/03/2022(Xem: 3123)
Tâm Đại từ bi. Từ là năng lực đem lại an vui cho chúng sanh; Bi là năng lực dứt trừ khổ đau cho mọi loài. Từ bi có sức mạnh thể chất và tâm linh để dõng mãnh làm lợi lạc cho đời, như vậy trong từ bi đã bao hàm Trí tuệ và Hùng lực mới đủ uy đức nhiếp chúng độ sanh. Tâm Đại từ bi là tâm của bậc đã thành tựu đạo nghiệp. Nay phàm phu chúng con nghiệp dày phước mỏng nhưng cũng nguyện thực tập theo hạnh Từ bi của Bồ Tát. Nguyện cho tâm chúng con mỗi ngày một bớt giận ghét người, không sân si với hoàn cảnh mình đang sống và biết ơn với những gì mình đang có. Nguyện đem tất cả khả năng của mình để cống hiến niềm vui cho đời, giúp người bớt khổ. Nhờ vậy mà tâm chúng con ngày càng tỏa sáng tình thương yêu, hiểu biết để thể nhập vào nguồn sống dạt dào Từ Bi Hỷ Xả của chư Phật, chư Bồ Tát.
19/03/2022(Xem: 2909)
Bồ Tát có gốc là Bodhisattva. Từ Bodhi có nghĩa là " giác ngộ.", sattva có nghĩa là "chúng sanh". Bodhisattva được dịch là chúng sanh giác ngộ hoặc người giác ngộ. Sau khi đạt được giác ngộ, bằng từ bi và trí tuệ, vị Bồ Tát giúp mình và người khác vượt qua biển khổ đến bờ an lạc. An lạc chính là Niết Bàn. Trong cuộc sống hàng ngày, các vị Bồ Tát luôn có mặt quanh ta, gồm Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia. Đó là những người bằng trí tuệ, công sức giúp mọi người bớt khổ đau trong thân và tâm. Bồ Tát làm được điều đó bởi trong tâm của Bồ Tát tồn tại một năng lượng gọi là Tâm Bồ Đề. Khi quy y Tam Bảo, ai cũng muốn có Tâm Bồ Đề. Để đạt được Tâm Bồ Đề của một vị Bồ Tát, người tu phải tự hỏi: Mình an lạc không? Mình sống chan hòa với những người xung quanh không? Người tu phải hiểu rõ cái tính Không trong cuộc sống. Hoa cũng là đất và đất cũng là hoa. Bởi khi ngộ được “Ngũ uẩn giai không” thì mới “ độ nhất thiết khổ ách” tức là vượt qua mọi khổ đau đến được bờ Niết Bàn.
01/11/2021(Xem: 6701)
Kính mừng Lễ Vía Đức Phật Dược Sư Đản Sinh 30/9 Nhân ngày lễ Đức Đông Phương Giáo Chủ cùng tìm hiểu niềm tin đối với Ngài và sự mầu nhiệm linh ứng đến với mỗi Phật Tử .... Cách đây 25 năm, lần đầu tiên sự linh ứng của Phật Dược Sư đã đến với tôi một cách bất ngờ mà sau này khi học Phật tôi mới hiểu là mình có được túc duyên mới có được một phương thuốc nhiệm mầu về tâm linh do Ngài ban tặng qua câu thần chú linh ứng như sau mà lúc ấy chưa có YouTube để nghe như bây giờ .... Thần chú Dược Sư là một trong những câu thần chú được trì tụng nhiều nhất bởi công năng bất khả tư nghì mà nó đem lại cho hành giả khi trì tụng. Không chỉ có năng lực chữa lành bệnh tự thân hành giả mà còn có công năng chữa bệnh cho người khác. Quan trọng hơn là khả năng tịnh hoá những nghiệp bất thiện trong
22/10/2021(Xem: 3158)
Kính mừng Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 Kính dâng Thầy bài thơ nhân ngày Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 âm lịch ( 24/10/2021) .Kính chúc sức khỏe Thầy Kính ngưỡng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ... Một lần nữa, sự nhiệm mầu đã đến ! Melbourne vừa gỡ bỏ lockdown hai ngày Lễ vía Bồ Tát 19/9 sẽ cử hành ... hoan hỷ thay ! Mừng Ngài đã lắng nghe, giải cứu giúp thoát Khổ ! Sự là lòng từ bi nhân ái vị tha ...Bồ Tát Độ Lý thì chúng con tự cứu độ bản thân Bao dung, không tham đắm ái nhiễm bụi trần Bố thí, yêu thương người .. luôn giữ tâm ý sạch ! Kính nguyện : ... học ý nghĩa tên Ngài để làm tròn trọng trách, Người Phật Tử phải thể hiện được Từ Bi Nhẫn nhịn trước mọi nghịch duyên chớ khóc than chi Hiểu rõ hơn, lắng nghe hơn ... giải tỏa uẩn khúc ! Ngày Lễ Vía Quan Âm Xuất Gia 19/9 .. nguyện hứa biết tri túc ! Huệ Hương Melbourne 24/10/2021
06/09/2021(Xem: 4222)
Địa ngục là một khái niệm thuộc thế giới quan, nhằm mục đích trừng ác, răn dè hành vi của con người trong thế giới thực tại. Quan niệm về địa ngục được hình thành trên cơ sở thuyết luân hồi, luật nhân quả, thuyết báo ứng. Từ tư tưởng triết học, địa ngục được chuyển hóa thành nhiều loại hình nghệ thuật tôn giáo khác nhau, từ các dịch phẩm, khoa nghi, thơ phú, cho đến nghệ thuật tôn giáo, hội họa, bích họa, điêu khắc, phù điêu, đồ họa. Sự ảnh hưởng của kinh tạng Bắc truyền và nền nghệ thuật Phật giáo Đông Á là điều ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Từ triều đại Lê Thánh Tông (1442-1496) có bài “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”, trong có đề cập đến thiên đường, địa ngục, Phong Đô, cảnh đói khát dưới chốn âm ty. Bài này dùng để răn dè 10 loại người gồm: thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, Nho sĩ, thầy địa lý, thầy thuốc, tướng quân, hoa nương, thương nhân, đãng tử. Như vậy có thể hiểu được rằng dẫn có những tham khảo nhất định về địa ngục của Phật giáo. Bài này là để cúng xá tội vong li
24/07/2021(Xem: 3349)
Kính lạy Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokitesvara) Ngài là vị Bồ tát với hạnh nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu khổ đau của cuộc đời rồi tìm cách cứu giúp chúng sinh. Hôm nay là ngày vía Đức Ngài đã thành Đạo 19/6 âm lịch rơi vào 28/7/2021. Kính bạch Ngài .... Từ nhiều năm về trước các chùa Tự viện tại VN và Hải ngoại đều cử hành 3 ngày vía (19/2-19/6-19/9) rất trọng thể để quy ngưỡng và dâng trọn niềm tin đến Đức Ngài. Vị Bồ tát có khả năng thị hiện vô biên thân, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà hiện thân tương ứng để cứu độ muôn loài.( theo kinh Pháp Hoa ). Và con đã từng khấn nguyện sẽ cúng dường đến Ngài bằng những vần Thơ , bài viết hầu tán dương Ngài với hạnh nguyện Nhĩ căn Viên Thông như Đức Cổ Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai đã thành tựu và trong dân gian Ngài (Bồ-tát Quán Thế Âm ) được tha thiết thầm kính tôn xưng Mẹ Quan Âm .
26/06/2021(Xem: 11647)
1/ Tôn Giả Xá-lợi-phất: Trí huệ đệ nhất Trí tuệ cao minh vi đệ nhất Tăng đoàn thống lãnh trợ Từ Tôn Kỳ Viên Tinh Xá thân lâm kiến Đạo nghiệp truyền lưu chiếu ánh quang. Trí tuệ sáng ngời là số một Tăng đoàn thống lãnh giúp Từ Tôn Kỳ Viên Tinh Xá đích thân dựng Đạo nghiệp lưu truyền rạng ánh quang Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Trí Tuệ Đệ Nhất Xá Lợi Phất Tôn Giả 2/ Tôn Giả Mục-kiền-liên: Thần thông đệ nhất Thần thông đệ nhất chúng xưng dương Thống lãnh tăng đoàn trợ Pháp Vương Hiếu kính mẫu thân khai diệu pháp Vu Lan báo hiếu vĩnh lưu hương. Thần thông số một chúng xưng dương Thống lãnh tăng đoàn trợ Pháp Vương Hiếu kính mẫu thân khơi pháp diệu Vu Lan báo hiếu mãi lưu hương. Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Mục Kiền Liên Tôn Giả
26/04/2021(Xem: 13176)
Đức Chuẩn Đề (1) vốn là Thất Cu Chi Phật Mẫu. Mười sáu tháng ba âm lịch, vía lễ thực thi (2) Ngài thường thuyết giảng Kinh Đà La Ni, Nguyện cầu tất cả trong Thế gian, Xuất thế gian đều thành tựu ... Khi nhìn biểu tượng Ngài ...khiến tâm tự nhủ (3) Uy lực từ bi vô biên với quần sanh Trí tuệ vĩ đại ...tay thứ chín ..Bát Nhã kinh Nguyện noi gương Bồ tát Long Thọ đọc 7 lần thần chú (4) Nam Mô Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]