Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm nghĩ khi đọc một số bài thơ của Sư trưởng Như Thanh

01/04/201320:49(Xem: 11451)
Cảm nghĩ khi đọc một số bài thơ của Sư trưởng Như Thanh

Su_Ba_Nhu_Thanh


Cảm Nghĩ Khi Đọc Một Số Bài Thơ Chữ Hán
Của Sư Trưởng Như Thanh

Trần Tuấn Mẫn


Sư trưởng Như Thanh đã sáng tác, biên soạn và dịch thuật khoảng 20 tác phẩm Phật học. Riêng về thơ, Sư trưởng cũng có ít nhất 8 tập với các đề tài về đạo, về khuyến tu, về sự cảm nhận thực tại của một nhà tu sĩ đã thấm nhuần và thể nghiệm giáo pháp của Đức Thích Ca. Thơ của Sư trưởng gồm nhiều thể loại: thơ bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát, song thất, Đường luật. Đặc biệt mới đây tôi có được đọc tập thơ chữ Hán, gồm 25 bài mà tôi rất tâm đắc. Trong khuôn khổ bài này, tôi chỉ xin nói đến một đề tài khá đậm nét trong tập thơ, đó là sự thể nghiệm sâu sắc về cái thực tại rất mực cụ thể, rất mực sinh động, hồn nhiên lại vô cùng vi diệu của nhất như, bất nhị, bình đẳng, "ngay ở đây và bây giờ" và vẫn như thế từ vô thỉ đến vô chung.

Trước hết, là một vũ trụ quan của tính Không (Sunyata) làm căn bản cho cái nhìn về thế giới duyên sinh, hữu vi đầy những chuyển biến, đầy tính đa thức của vọng tình phân biệt. Chỉ có đứng trên quan điểm tính Không, tức cái thực tướng của Chân không, cái Không tuyệt đối và vô cùng mầu nhiệm, bất khả tư nghì rồi thì mới thấy cái ảo hóa của Có, Không đối đãi để rồi hợp nhất đúng vào tổng thể Chân như:

Chân không thực tướng lộ nguyên hình,

Sắc sắc, không không liễu liễu mình.

Tức sắc, tức không, chân thể hiện,

Phi không, phi sắc, vạn duyên trình.

(Thực tướng)

Vì Không tính là pháp tính, vì tính của pháp là Không thì tướng của pháp dù có muôn hình vạn trạng vẫn chỉ là biểu hiện của cái Không tuyệt đối, tức là mọi sự vật chỉ hình thành do duyên mà thôi:

Pháp tướng vô biên vạn sự thành,

Trùng trùng vật sắc tự duyên sanh.

(Pháp tướng)

Cái thế giới vô lượng vô biên của pháp tướng mà ta quan niệm đối đãi bao gồm tâm - cảnh, ta - người luôn luôn chuyển biến được gọi là thế giới tâm vật lý hay thế giối hiện tượng. Nó được gán vào bao nhiêu là ý niệm, bao nhiêu là tên gọi khởi từ những cảm thọ của ta. Nó là thế giới của phân biệt (vikalpa) như kinh Lăng Già tuyên bố "Tam hữu duy phân biệt".

Do kết quả tu tập lâu dài, tác giả lĩnh hội, thể nghiệm về một cái nhìn vượt qua thế giới của phân biệt và đề nghị ta nên có cái nhìn ấy. Chỉ có như thế ta mới thấy được "thế giới đúng như nó là". Như thị, như như, nhất như, chân như, chân thực đều là những từ Hán dịch từ Phạn ngữ Tatwam, hay Tathà, hay Tathàta. Vì là Chân như nên thế giới dù mang vẻ đa phức, vẫn là thể hiện của cái chân tính nhất như, bất dị hay bất nhị (Advaita, Advaiya) và bình đẳng (Sama), bất sinh (Anutpanna):

Pháp phá nguyên lai bổn thể đồng,

Bất sinh bất diệt vạn duyên thông.

Như như bình đẳng vô nhân ngã,

Thị thị chơn thường, tuyệt sắc không.

(Pháp tính)

Chỉ bằng bốn câu thơ trên, Sư trưởng Như Thanh đã khẳng định một thế giới quan đúng đắn chân thực: Một sự vật đều cùng một bản thể, thỉ chung vẫn như thế, không sinh diệt, luôn bình đẳng không hề có phân biệt ta với người, sắc với không, hay nói một cách khác là bất nhị. Đó là Pháp tính (Dharmata) vậy. Vậy, tất cả mọi việc đều như thị, như thế, là đồng là bình đẳng, vô phân biệt.

Tâm cảnh, sắc không đồng nhất thể,

Chân không thực tướng lô nguyên hình

(Thực tướng)

Một khi đã thông hội với thực tướng của chân không thì lý bình đẳng bất sinh lại càng được hiển lộ: tất cả đều hòa đồng, đều thuận hợp. Vì pháp tính vốn là Không nên không cảnh, không tâm, không đây, không đó, chỉ có sự khế hợp mà thôi vậy. Ý niệm về hạnh phúc, khổ đau, về phàm, thánh, về Niết bàn, trần thế chỉ còn lại sự tịch lặng trong diệu dụng của nhất như:

Phi cảnh, phi tâm, phi bỉ thử,

Khế thời, khế sự, khế tây đông.

(Pháp tính)

Hay:

Nhân tâm, vật cảnh vô sai biệt,

Thành ý, phàm tình tự giả không.

(Diệu dụng)

Và:

Cực lạc, Ta bà đồng nhất phẩm.

Pháp thân thanh tịnh thể an nhiên.

(Pháp thân)

Chính vì không phân biệt, hành giả đạt được tự tại, thong dong của sự thể hiện Đạo viên mãn, dứt triệt mọi ranh giới chia cách của nhị biên, điều mà tác giả gọi là tính vô ngại của sự dung hợp viên mãn:

Viên đạo dung thông vạn pháp thành,

Ngã nhân, tâm pháp bất tương tranh.

Đề huề khế hợp Không hòa Sắc,

Tương tức tùy duyên nhiễm hóa thanh.

(Viên dung vô ngại)

Vô ngại là diệu dụng của một quá trình công phu tu tập để thâm nhập thực tại. Chân như bàng bạc khắp thời gian và không gian nằm sâu kín bên trong, lại bao trùm cả vạn pháp hữu vi. Cho nên, sự tùy nghi là một thuộc tính của tự tại giải thoát. Tâm này là Phật, Phật ấy là tâm, gặp duyên là lập tông chỉ, gặp chỗ là làm chủ nhân, đâu cũng là nơi để mình làm người điều ngự, đâu cũng là chân lý, ngay đây là đúng, ngay đây là an lập:

Đương tâm tức Phật, thị tâm thị Phật,

Ngộ duyên tức tông, tùy xứ tác chủ.

Tuỳ xứ tác chủ, lập xứ giai chân,

Đương xứ tức chân, tùy xứ an lập.

(Danh ngôn danh lý)

Đoạn thơ hùng hồn, mãnh liệt, lại thong dong thoải mái nghe như bản tuyên ngôn về một thái độ sống đạo, tự do và giải thoát tâm linh. Chính trên lập trường này mà hành giả càng lúc càng thấy ra cái ý nghĩa kỳ diệu của Chân như tịch mịch vốn dĩ vô cùng tha thiết thâm trầm, vốn tự bao giờ đã hiện hữu, lừng lựng và từ đó hành giả nhận ra rằng: Khổ đau là do sự phân biệt của một cái tâm điên đảo chứ thực tại có làm gì đâu! Hoa nở, chim về, gió thổi, mây bay, trăng sáng, nước trôi thực là nhẹ nhàng, thi vị, đâu có ý nào, đâu có lời nào! Tất cả là những bóng dáng của nhất như, rất tự nhiên, rất cụ thể, lại vô cùng linh diệu:

Nhạn tự vô tâm khứ

Phong nguyên bất trước lại.

(Thiền đạo)

Hay:

Thuỷ tại hải trung vô ý thuyết,

Nguyệt lưu thiên thượng bất ngôn trang.

Xuân lai đông khứ uyên nguyên lộ,

Nhạn ngữ hoa ngôn ảo diệu tràng.

(Ngộ đạo)

Từ đó, niềm vui sống đạo của hành giả trở nên trong sáng, hành giả thể nhập lý Không, tức là tâm cảnh vô phân biệt trong thái độ vô chấp

Thiền duyệt an tâm lạc cảnh đồng,

Liễu tri vạn sự tất giai không.

Chân linh nhất phiến vong nhân ngã,

Diệu thể vô ngôn tuyệt tổ tông.

(Thiền duyệt)

Nhưng để có được niềm vui Thiền, để có được cái chân linh, thông hội được cái diệu thể của vô ngôn trong lòng cái thế giới hữu vi vô thường (Nhàn khan thế giới tùy duyên hiện) thực không phải dễ dàng. Sư trưởng Như Thanh, gần suốt một đời, với gần 70 hạ lạp đã trăn trở, thao thức, đã nghiền ngẫm kinh luận, đã thực hành giới hạnh và thiền định trong nỗ lực tinh tấn liên tục. Quá trình này đã được Sư trưởng bày tỏ qua nhiều pháp ngữ thiền thi:

Học nghiệp tinh thần tự đảm đương,

Thời thời ôn cố trí tư lương.

Thân tâm tĩnh định trí nhân lực,

Trí huệ minh khai ngộ phước hương.

(Cảm đề)

Bốn câu thơ trên là cả một quyết tâm hạ thủ công phu, thực hành Giới Định, Huệ làm tư lương cho cuộc hành trình tìm về thực tại. Sư trưởng nhấn mạnh đến nguyện, đến hạnh, đến sự xả bỏ tham dục, đến quyết tâm tinh tấn, nuôi dưỡng thần khí:

Nguyện thâm, hạnh đại, khí tịnh, thần thanh.

Hay:

Ly dục tịch mịch, đoạn hoặc chứng chân,

Nội thủ công thâm, thần minh khí tịnh.

(Danh ngôn chân lý)

Quá trình tu tập như trên là một kinh nghiệm thâm sâu và cụ thể của Sư trưởng, cũng là pháp ngữ về sự tiến tu cho mọi người nhất là cho hàng lậu học. Đây là cái công phu mà mỗi người phải thực hiện bằng chính tự mình, xa rời hai cực đoan của sự chạy rông truy tìm chân lý bên ngoài và của sự kiêu mạn xem mình là bậc tu chứng tự tri, để rồi kiếp kiếp phải lang thang qua những đau thương mịt mùng trong cuộc mê du vô tận.

Trên đây, là những dòng ngẫu cảm qua một số bài thơ trong tập thơ chữ Hán của Sư trưởng Như Thanh. Cái khí vị lưu lại trong tôi ngoài nội dung súc tích của tập thơ là những lời lẽ trang nghiêm thuần hậu, thâm trầm như một tỏ bày tâm sự, tự nhiên, tự tại như tiếng nói của mây, nước, đất, trời; lại thâm thiết như lời giáo huấn của bậc Tôn sư đầy bi nguyện. Cao quý, chân thực và đẹp đẽ thay những bài thơ chữ Hán của Sư trưởng Như Thanh !

---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2021(Xem: 9472)
Thiền sư, thi sỹ, nhạc sỹ, họa sỹ, cuồng sỹ, du sỹ, lang thang sỹ, văn nghệ sỹ tự thuở nào đi về thấp thoáng, nhấp nhô trong sương mờ vạn cổ. Từ buổi mới khai thiên lập địa lúc ban sơ, nguyên thủy đến bây giờ, họ đã ra đi và đi mãi trên con đường mây trắng, con đường sáng tạo vừa lao đao, khổ lụy vừa hùng tráng, thênh thang, vượt qua mộng thực đôi bờ sinh tử, bằng một bước nhảy trọng đại, xuất thần nhập thánh đáo thiên tiên. Huyền cảm tự do, họ thuận nhiên về trên cuộc lữ phong trần giữa một chiều diệu hóa hay một đêm trăng sao ảo huyền cùng tao ngộ bên “thềm cô phong tuyệt đỉnh hội mây ngàn” và hòa âm cung bậc với toàn thể cuộc đời. Đó là thể điệu chịu chơi Cưỡi Sóng Phiêu Bồng mà nhà thơ Thái Huyền đã hý lộng hát ca Khúc Lý Lả:
21/12/2020(Xem: 3500)
Ai cũng tin rằng tương lai sẽ như vầy, như vầy, đúng như hôm qua và hôm nay đã trù liệu, hoạch định và tiến hành; bởi vì cái nhân gieo xuống với sự trợ duyên của các yếu tố phụ thuộc chung quanh, một cách khoa học và kinh nghiệm, cùng với thời gian vừa đủ để một tiến trình được khai mở, phát triển, chắc hẳn có nhiều phần mang lại kết quả tương xứng, hoặc bội phần, hoặc bội bội phần. Tuy vậy, kinh nghiệm, với những kết quả thực tế của một số sự việc, công trình, cũng cho thấy rằng, không phải lúc nào quả phải theo nhân. Bài học vỡ lòng của nhân-quả dạy chúng ta rằng các yếu tố ngoại tại có khi cũng rất quan trọng để dẫn đến kết quả như ý hay bất xứng ý. Tất nhiên khi nông gia cấy lúa xuống ruộng, đã theo kinh nghiệm lâu năm của cha-ông và nghề nghiệp: biết chọn giống tốt, biết lúc nào gieo mạ, cấy mạ, đưa nước vào ruộng, xả nước khỏi ruộng, xịt thuốc trừ sâu, v.v… Nhưng cũng nông vụ nầy, năm ngoái trúng mùa, năm nay bão giông lũ lụt lại thêm các đập thủy điện xả nước, lúa sẽ bị
10/12/2020(Xem: 5900)
Dạo này đang mùa bầu cử Tổng Thống tại xứ Cờ Hoa, có nhiều tuồng diễn rất ư là ngoạn mục, lấy mất của tôi rất nhiều thời gian. Tôi không còn thì giờ để à ơi mưa nắng với một số các bạn xưa. Muốn nói chuyện cũng phải cân nhắc, lựa lời dò la xem đối phương thuộc về bên nào, có cùng chung một chiến tuyến với mình không? Nhỡ cùng một lũ cuồng hết có mà vỡ nợ! Chẳng những thế tôi còn phải xem sắc mặt của từng ông Chủ Bút của từng tờ báo, giấy cũng như điện tử mà lựa bài để gửi. Gửi sai, chẳng những bài bị vất vào sọt rác mà tình văn nghệ cũng sứt mẻ dài lâu. Tại sao lại ra cớ sự như vậy? Trong lịch sử bầu bán chưa bao giờ có hiện tượng kỳ lạ đến như thế. Đây không phải là trận chiến giữa hai đối thủ, giữa hai đảng phái cùng yêu nước, mà là hai phe từ lúc con người mới khai thiên lập địa đến nay, đã có sẵn trong bầu máu nóng những hạt giống của tham lam, sân hận, si tình đủ kiểu. Đã ẩn hiện trong từng một con người với hai mặt tốt và xấu, chánh và tà, như ngày với đêm, như thiên thần
04/12/2020(Xem: 12812)
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy! Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
02/12/2020(Xem: 9815)
Làm thinh không phải mình sai Làm thinh là để tương lai cuộc đời Làm thinh không phải dại khờ Làm thinh là để lu mờ thị phi Làm thinh không phải khinh khi Làm thinh là để biết đi biết về Làm thinh không phải u mê Làm thinh là để nghĩ về đường tu Làm thinh không phải gật gù Làm thinh là để Văn Thù hiện ra Làm thinh không phải thứ tha Làm thinh là để biết ta làm gì Làm thinh không phải nhu mì Làm thinh là để mỗi khi thực hành Làm thinh không phải tranh giành Làm thinh là để trung thành hạnh tu
02/12/2020(Xem: 11035)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ QUÊ HƯƠNG MÙA BÃO LŨ (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ QUẢ BÁO VỀ VIỆC GÂY TẠO CHIẾN TRANH (Quảng Tánh), trang 12 ¨ CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC (Quảng Tánh), trang 13 ¨ CHỈ LÀ LỜI HỎI THĂM (thơ Thy An), trang 15 ¨ KHỔ THÁNH ĐẾ (Chân Hiền Tâm), trang 16 ¨ SAU LỤT LÀM BÀI THƠ VỀ CỎ (thơ Lê Vĩnh Tài), trang 20 ¨ ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO (Tuệ Uyển dịch), trang 21 ¨ MÙA LŨ (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 25 ¨ LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC? (TN Hằng Như), trang 27 ¨ AI ƠI, MAU DỪNG LẠI (thơ Huệ Trân), trang 32 ¨ CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT, VNPG Sử Luận, Chương 33 (Nguyễn Lang), trang 33 ¨ LOAY HOAY GIỮA CON ĐƯỜNG (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 36 ¨ CHẤP THỦ LÀ ĐÁNG SỢ (Lâm Thanh Huyền), trang 37 ¨ TRUYỀN THỐNG GĐPT
01/12/2020(Xem: 9634)
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, lục bát Việt Nam đã tạo nên một bước đi tân kỳ, một bước nhảy ngoạn mục, rung lên những tiếng thơ tự tình giữa trường mộng nhân sinh, nỗi ngậm ngùi nhân thế với niềm xao xuyến, bồi hồi. Rồi tiếp nối trên những bước đi song hành cùng lục bát, rạt rào bao sóng vỗ ngân nga, hòa âm thâm thiết với những tâm hồn quá đỗi tiêu sái như Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Dzếnh, Phạm Thiên Thư, Huy Cận, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương… Đặc biệt Huy Tưởng, riêng một cõi trời thơ Mười Phương Tố Vọng phiêu diêu giữa Phương Chiều: Trũng hai mắt vọng bia đời Cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà Lòng tay nát mộng châu sa Phương chiều bãi quạnh mưa qua bến mình Nghiêng tầm con mắt soi kinh Vẳng nghe tâm lặng hồn chênh chếch về Phôi thu rụng lá mây đè Phiền ban sơ dậy đất se sắt lòng Im nghe thác máu loạn dòng Trôi phiêu lạc giữa vô cùng mộ Không
23/11/2020(Xem: 6751)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
11/11/2020(Xem: 6578)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
11/11/2020(Xem: 9542)
Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”. Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]