Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Còn Nhớ Hay Người Đã Quên

22/10/202420:04(Xem: 555)
Người Còn Nhớ Hay Người Đã Quên

Người Còn Nhớ

Hay Người Đã Quên

 

Minh Đạo & Nguyễn Thạch Hãn



 

Mến tặng các bạn TQLC thân yêu của tôi.

Trong số các bạn, có những người đã ra đi không bao giờ trở lại, em tôi là một trong những người đó. Người dân Miền Nam vẫn luôn giữ hình ảnh hào hùng của các bạn trong trái tim với lòng biết ơn bao la.

  

Thầy Năng Tĩnh ở một mình trong ngôi Chùa nhỏ vùng ngoại ô, rất xa thành phố. Ngôi Chùa chỉ là chiếc “mobile home” trên vài mẫu đất, trước kia là một nông trại bé tí teo, có hàng rào kẽm gai chung quanh để trại chủ nuôi bò. Từ ngày lập Chùa, Thầy chỉ nuôi một con chó nhỏ để làm bạn và mấy con gà trống, thả chạy tự do đặng nghe tiếng gáy cho vui. Sát hàng rào Thầy trồng mấy dây mùng tơi, khổ qua, giàn bầu và mướp trái xum xuê, bên cạnh đó là mấy luống cải xanh, rau thơm, cà pháo. Sân trước, Thầy đào chiếc hồ xinh xinh, có hòn non bộ, đầy đủ cảnh “Sơn Thủy Tùng Đình” với “Ngư Tiều Canh Mục”, trông cũng vui mắt. Trong hồ có cá vàng bơi lội tung tăng, vài con rùa thỉnh thoảng lại trồi lên mặt nước ngoe ngoảy. Những lúc rảnh rỗi, Thầy ra ngồi trên chiếc ghế đá đặt cạnh hồ đọc sách hoặc uống trà, có khi ngồi thiền nữa. Đúng là khung cảnh nhà quê Việt Nam của kẻ nhàn hạ ẩn dật. Kể ra cuộc sống cũng tạm đầy đủ, thỉnh thoảng có khách lại thăm, mang cúng dường vài bao gạo, mấy chai tương đủ cho Thầy dùng cả năm. Phật tử theo Thầy đa số là bạn bè cũ, hoặc mấy người theo học khóa tu thiền. Thầy cất mấy cốc nhỏ sau chánh điện làm phòng ngủ cho chính Thầy và cho khách phương xa cần ở lại.


thay nang tinh (2)

 

Thỉnh thoảng Chùa vẫn mở khóa tu thiền, thường kéo dài từ 4 ngày đến 1 tuần. Phật Tử đến tu tập xúm nhau nấu ăn tập thể, nghe Thầy thuyết pháp và tập thiền, đa số là những người lớn tuổi, thời giờ rảnh rỗi, muốn tìm về nơi yên tĩnh để được hít thở không khí trong lành, như một cuộc nghỉ mát hằng năm cho tâm hồn thư giãn. Chùa ở xa thành phố nên cũng it khách thập phương vãng lai. Thầy là người điềm đạm, thông thái và vui tính. Ai có điều khó giải quyết trong gia đình cũng lại Chùa để trút bầu tâm sự và nghe lời Thầy chỉ dẫn. Thầy đã lăn lóc hơn nửa đời người ngoài đời nên cũng có chút kinh nghiệm về đời sống gia đình. Dạo gần tết, có người biếu Thầy một chậu mai vàng, Thầy vẫn chưng trong phòng khách cùng với mấy chậu kiểng bonsai. Bên Mỹ, loại mai rừng năm cánh dài và nhỏ xíu thì rất nhiều, nhưng Mai Việt Nam thì hiếm, quý lắm, thế mà có người trồng được, hay họ nhập cảng từ Việt Nam không chừng. Phòng khách, phía sau chánh điện, trên tường có treo bức tranh thật đẹp, có lẽ Phật Tử vẽ tặng Thầy; Hình một tháp chuông của ngôi Chùa nào đó, ở góc tháp, chỉ thấy chiếc áo nâu của vị Sư đang nhìn về phía núi rừng trước mặt, trong buổi chiều tà. Phía dưới hình tháp chuông là bài kệ “Cáo Tật Thị Chúng” của Thiền Sư Mãn Giác:

 

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

 

hoa_mai_1

Bài kệ này đã được cụ Ngô Tất Tố dịch ra như sau:

 

Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai

 

Bài kệ đã được sáng tác hàng ngàn năm trước từ đời vua Lý Nhân Tông, có lẽ sẽ còn truyền tụng nhiều ngàn năm sau và mãi mãi. Thiền Sư Mãn Giác đã khéo léo dùng hình ảnh hoa rụng rồi hoa nở để nói lên kiếp luân hồi của chúng sanh, như thiên nhiên có đi rồi có về, giòng đời vẫn trôi vô tình.

 

Một buổi chiều cuối tuần có người khách từ phương xa đến trao cho Thầy tấm thiệp. Thầy Năng Tĩnh cầm tấm thiệp, lật qua lật lại xem tỉ mỉ. Tấm thiệp cũ kỹ, bạc màu, đã sờn rách mấy góc cạnh, không có địa chỉ người gởi nhưng địa chỉ người nhận đã bị sửa đổi nhiều lần, chứng tỏ nó đã chuyền qua nhiều người trước khi tới tay Thầy. Thầy lẩm nhẩm đọc tấm thiệp từ Việt Nam gởi tới:” Nội của cháu nhắc đến Ông luôn, Nội đã mất rồi. Cháu tình cờ đọc được bài viết về Ông trên mạng. Cháu cám ơn Ông và bạn của Ông đã cứu gia đình cháu, Huế, Mậu Thân.” Thầy nhìn mãi tấm thiệp như đang nhìn hình ảnh đời Thầy trong dĩ vãng.

 

Thầy Năng Tĩnh sinh ra và lớn lên ở Huế. Những gì còn lại trong Thầy chỉ là mấy bài thơ nhớ Huế, và vài kỷ niệm của cậu “Bé Tư” hoang đàng chơi nhiều hơn học.

 

Sao anh không về chơi thôn Vỹ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,

(Đây Thôn Vỹ Dạ, Thơ Hàn Mặc Tử)

 

Thời niên thiếu của Thầy là cả một trời mộng mơ với bao kỷ niệm êm đềm. Mỗi khi trời se lạnh, rong chơi trên những con đường Thành Nội, ngắm những tà áo trắng học trò khoác hờ một chiếc áo len đủ màu, ôi dễ thương làm sao! Những buổi trưa hè cùng đám bạn “Trời đánh” đạp xe ra hồ Tịnh Tâm hay lên đồi Vọng Cảnh hoặc nằm dưới gốc mấy cây Phượng Vỹ hoa đỏ rực gần cầu Trường Tiền. Huế chỉ còn lờ mờ trong ký ức đâu đây. Chùa Linh Mụ trang nghiêm soi mình trên giòng sông Hương thơ mộng, núi Ngự Bình hiền hòa như vòng tay Mẹ dang ra ôm những người con xứ Huế vào lòng. Còn gì nữa nhỉ, phải rồi, những buổi hẹn hò đi ăn chè Cồn, ăn cơm Âm Phủ,  bún bò Huế ở cái quán sập xệ bên đường quốc lộ 1, dưới gốc tre già, ngon tuyệt vời và cay xé họng,  hay những ngày còn bé bỏng lẽo đẽo theo Mạ trong chợ Đông Ba. Vâng, chỉ có thế thôi, còn lại là máu và nước mắt. Máu của đồng đội và nước mắt của những bà mẹ mất con, người vợ mất chồng. Huế là những tang tóc điêu tàn của Tết Mậu Thân, là ngơ ngác lo âu hoảng loạn của nhũng ngày cuối cùng thời VNCH.

 

Đời người thật ngắn ngủi, mới hôm nào đây, Thầy còn là một chàng trai trẻ “Cậu Tư” vẫn cắp sách đến trường, rồi bị gọi động viên vào quân ngũ. Cậu mê màu xanh rằn ri và cuộc sống hào hùng của những “Thủy Thần Mũ Xanh”, thế là tình nguyện gia nhập TQLC. Trải qua bao nhiêu gian khổ, sống chết trong gang tấc. Những đứa con yêu xứ Huế đã mấy lần cứu đất Mẹ, để trả một chút ân tình cưu mang. Tết Mậu Thân, hối hả theo đơn vị từ Saigon về Phú Bài, suốt gần một tháng hành quân giải tỏa, đổ bao nhiêu xương máu của anh em, bạn bè, đồng đội để giành lại từng căn nhà, từng con đường, cuối cùng cũng treo được lá cờ vàng trên  kỳ đài Huế, lính tráng vỗ vai nhau cười mừng rỡ. Cha Mẹ ở đó, bà con anh em ở đó, Thầy cô ở đó, ngôi trường thân thương thời niên thiếu ở đó, bây giờ đã chiếm lại được! Cái giá phải trả quá cao nhưng vẫn là đáng giá. Đã là trả chữ hiếu thì  nghĩ gì đến giá cả! Đơn vị lúc ra đi đầy đủ quân số, giải tỏa xong chỉ còn lại một phần ba.

 

“Mùa Hè Đỏ Lửa” Cậu Tư theo đoàn quân cấp tốc từ Ái Tử kéo về dàn hàng ngang bờ nam sông Mỹ Chánh. Bắc quân, với quân số cao gấp mấy lần, đang hùng hổ vượt sông Bến Hải kéo nhanh về phương nam, Hy vọng sẽ chiếm Huế một lần nữa trong thời gian rất ngắn, nhưng bị khựng lại ngay bờ sông Mỹ Chánh. Những đứa con yêu đất Thần Kinh đã dựng một bức tường lửa ngay ở đó đốt rụi đám quân “Sinh Bắc Tử Nam” điên cuồng, rồi đẩy bật “những con thiêu thân” đó ra khỏi Cổ thành Quảng Trị. Máu đổ thịt rơi, trên 3.000 chiến hữu đã bỏ mình để đổi lấy sự tự do cho miền địa đầu giới tuyến. Quảng Trị ơi, quê hương ta đấy!. Quê hương đầy máu lửa và hận thù, do giặc phương Bắc mang đến. Thời trai tráng đã đi qua mau chóng sau những chiến trận đẫm máu, Cậu Tư đã trở thành Ông Tư lúc nào không biết.

 

Tháng 3 năm 75, đám bạn bè của Ông muốn cứu đất Mẹ lần thứ ba, nhưng không còn cơ hội nữa, thế là “Gãy Súng”, thế là “Tan Hàng”, nhưng không ai còn nhớ những đứa con thân yêu bị bỏ rơi ở cửa biển Thuận An, ở Non Nước Đà Nẵng. Đồng đội của Ông đã hy sinh trên những “Pháp Trường Cát” đó. Người ta đã quên đi, nhưng Ông thì không, bạn bè, anh em còn nằm lại đó, làm sao quên được.

Ông Tư bị đi tù cải tạo tận miền Bắc, ngày được tha về, vợ Ông đã qua đời. Gia đình cha mẹ chẳng còn ai. Nhà cửa bị tịch thu, đứa con gái nhỏ vượt biên chẳng ai biết tin tức ra sao. Nghĩ đến gia đình tan nát, đúng là cảnh “Nước mất nhà tan” Ông lại ứa nước mắt. Ông tự hỏi từ ngày đi tù cải tạo, vợ con Ông làm sao để sống? Bao nhiêu cay đắng nhọc nhằn nay mới được dịp tuôn trào như nước vỡ bờ. Ông theo người bạn, sắm một thùng đồ nghề nho nhỏ để sửa xe đạp, “bản doanh” đặt ở gốc cây gần ngã tư.  Thời điểm đó chương trình đoàn tụ gia đình (ODP) đang lên cao. Nhờ chút vốn liếng Anh Văn trong những lần Quân Đội cho tu nghiệp bên Mỹ trước kia, Ông đổi nghề làm Thầy dạy Tiếng Anh tại tư gia cho những gia đình sắp đi đoàn tụ, học trò của Ông nhiều quá phải chia bớt cho đám bạn tù khác. May mắn gặp người bạn giới thiệu dạy mấy lớp tiếng Anh trong một trường tư thục, cũng tạm đủ sống.  Lúc nạp đơn theo diện HO đi Mỹ, Ông vẫn còn lưỡng lự giữa đi và ở lại, cuối cùng Ông quyết chí ra đi để tìm đứa con thất lạc.

 

Qua Mỹ, nhờ bạn bè cũ, ra đi từ trước, giúp đỡ kiếm việc và hướng dẫn hội nhập vào đời sống mới. Việc làm lao động cực nhọc, dù cực mấy cũng không bằng những năm tù cải tạo. Ông làm việc không nghỉ, những ngày cuối tuần lại đi làm công quả ở Chùa, để khỏi phải nhớ về dĩ vãng. Ông muốn quên đi, nhưng không làm sao quên được.

 

Có những đêm mệt mỏi đặt lưng xuống giường nhưng mắt vẫn mở thao láo, dĩ vãng lại ùn ùn kéo về như mây mùa thu. Đôi khi chợt thấy mình còn đang nhọc nhằn trong trại tù cải tạo, giật mình thức giấc nửa đêm, mồ hôi ướt đẫm áo ngủ, sờ xoạng trên tấm nệm một lúc mới tin rằng mình đang ở bên Mỹ. Có những lúc thương nhớ người vợ đã ốm đau trong lúc nước mất nhà tan, chồng tù tội, không thuốc thang, rồi đột ngột bỏ đi về bên kia thế giới không lời từ giã với Ông, để lại đứa con gái trẻ dại, không biết nương tựa vào đâu, Ông ngồi khóc một mình trong nỗi cô đơn nơi xứ lạ quê người. Đứa con vẫn chẳng có tin tức gì.

 

Thỉnh thoảng đám bạn già lại tụ họp nhau ôn lại chuyện xưa, vỗ về an ủi nhau, ai còn ai mất. Ai hiểu được lòng thổn thức nỗi niềm mất nước nhà tan, lưu vong nơi xứ người?. Những vết thương xưa trong lòng hầu như khó lành, thỉnh thoảng lại vỡ ra. Hãy quên đi! Hãy quên đi! Hãy quên đi! Giọt nước mắt lưng tròng không gọt rửa được tủi  nhục và lòng thương nhớ anh em bạn bè, những kẻ kề vai sát cánh, sống chết với mình đã vĩnh viễn nằm lại.

Mỗi lần nghe bản nhạc:”Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” Đám bạn bè của Ông cúi đầu mắt đỏ hoe. Ai hiểu được nỗi niềm của kẻ tha hương muốn đem nắm xương tàn về với quê hương bên đồng đội của mình:

 

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh

Để đêm nghe vang dội khúc quân hành

Ôi! Lính chiến một thời kiêu hãnh quá.

 

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Đưa tôi về Ben-Hét, Đắc-Tô

Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ

Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quý.

 

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu Đ

Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề

Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.

 

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi

Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời

Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.

 

Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển

Trả tôi về với dân tộc Việt Nam

Gói thân tôi ba sọc đỏ màu vàng

Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.

 

(Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển. Thơ Nguyễn Văn Phán)

 

Một ngày giúp Sư Cụ dọn dẹp kệ sách trong Chùa, bất ngờ đọc được bài kệ của Thiền Sư Mãn Giác. Tục truyền rằng bài kệ đó, Thiền Sư đã ban cho các đệ tử trước khi Ngài viên tịch, để an ủi những người còn thương tiếc Ngài.  Ông Tư ngộ ra rằng kiếp nhân sinh  là vô thường nên quyết tâm cạo đầu xin quy y làm đệ tử Phật Môn. Sư Cụ cũng hoan hỷ chấp thuận. Ông Tư nay đã trở thành Thầy Năng Tĩnh, sớm hôm theo Sư Cụ học đạo và tụng kinh.



thay nang tinh (3)

 

***

Thầy Năng Tĩnh chợt nhớ ra, tuần lễ đầu tiên về giải tỏa Huế trong trận đánh Mậu Thân, đơn vị của Thầy đã mất một phần ba quân số chỉ để băng qua một con đường, tiến vào khu trường học. Hóa ra ngôi trường là khu giam giữ những người dân chẳng may lọt vào tay  lũ Việt Cộng nằm vùng. Hằng đêm chúng mở ra phiên tòa, buộc những tội vu vơ hay chỉ là tư thù cho người bị bắt rồi mang đi thủ tiêu. Một số người may mắn được đơn vị Ông cứu kịp, thoát chết, mặt mày ngơ ngáo, đói khát, trong đó có gia đình người Thầy giáo biệt phái bạn học cùng trường với Ông. Người bạn đã ôm chặt lấy Ông và khóc ròng. Nhiều người đã quỳ xuống đất lạy tứ phương như cám ơn những người lính VNCH và Trời Phật đã cứu họ vừa đúng lúc. Lính tráng chẳng có nhiều đồ ăn nhưng cũng chia cho đám “tù nhân” thê thảm đó ít cơm sấy ăn đỡ lòng. Đứa bé viết lời cám ơn gửi tới Ông chắc là cháu của Ông Thầy giáo hay là của một người nào đó trong đám tù nhân được Ông và đồng đội  giải thoát.

 

Đôi tay run run, Thầy lau nhẹ hai giọt lệ lăn trên gò má rồi tất tả đi vào chánh điện lạy Phật, tụng một hồi kinh sám hối. Thầy bước qua góc phải đến trước bàn thờ Hương Linh, trên bàn thờ có hình ảnh 5 vị Tướng VNCH tuẫn tiết và thấp thoáng rất nhiều hình ảnh các cựu chiến binh. Thầy thắp nhang, vái lạy và ngồi tụng một hồi kinh. Tiếng Thầy sang sảng nhịp đều theo tiếng mõ. Thỉnh thoảng âm vang tiếng chuông giải thoát trong không gian tĩnh mịch như muốn thức tỉnh những ai còn đang u mê trong cõi trầm luân.

 

Nửa đêm, Thầy chợt tỉnh giấc, trong tay vẫn cầm tấm thiệp, nước mắt còn hoen ố trên mi. Thầy thì thầm đọc bài kệ của Thiền Sư Mãn Giác:

 

“Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

  Đêm qua sân trước một cành mai”

 

Đúng vậy, Chết không phải là hết, Miền Vĩnh Cửu vẫn là điều mong ước như cành mai còn nở vào độ xuân tàn. “Nhất Chi Mai” tượng trưng cho niềm hy vọng, chân thiện mỹ. Những sự hy sinh bản thân mình của các vị anh hùng cho tha nhân giống như những giá trị siêu việt, vẫn trường tồn bất diệt. Thầy mỉm cười, khoác thêm tấm áo lạnh, đầu chùm chiếc mũ len, lặng lẽ đi ra phía bờ hồ, con chó con lẽo đẽo theo sau. Thầy châm lửa đốt tấm thiệp, rồi ngồi tọa thiền đến lúc nghe tiếng gà gáy, con chó vẫn nằm yên dưới chân chủ nó. Thầy thủng thẳng đứng dậy, đi về hướng chánh điện. Sau một đêm tọa thiền, ánh sáng ban mai đã xua đuổi hẳn màn đêm tăm tối ra khỏi bàu trời mênh mông và ra khỏi tâm trí Thầy Năng Tĩnh. Thầy chậm rãi đi về chánh điện để tụng hồi kinh sớm mai.

 

Thầy là người tu hành, những tưởng rằng nương tựa cửa Phật thì sẽ quên mọi sự nhưng dù sao Thầy cũng chỉ là con người như trăm ngàn con người khác với đủ cả “hỉ nộ ái ố” … và một tấm lòng từ bi, một trái tim biết xót thương đồng loại!

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 11689)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16006)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11005)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7411)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19651)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4333)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4078)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3530)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13003)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 3000)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]