Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Yếu tố Trí tuệ, Đạo Đức, Kỹ năng, Kiến thức Phật học là phương tiện thiện xảo của một vị Giảng Sư ?

15/04/202408:37(Xem: 2897)
Yếu tố Trí tuệ, Đạo Đức, Kỹ năng, Kiến thức Phật học là phương tiện thiện xảo của một vị Giảng Sư ?


Bat Quan Trai_14_4_2024 (23)Bat Quan Trai_14_4_2024 (25)Bat Quan Trai_14_4_2024 (28)
Phải chăng yếu tố Trí tuệ, Đạo Đức, Kỹ năng, Kiến thức Phật học, Phương tiện thiện xảo của một vị Giảng  Sư đóng vai trò quan trọng nhất trong Sự nghiệp hoằng pháp?

 

Vài cảm nghĩ khi được nghe bài pháp thoại của HT Pháp Tông ( Trụ trì chùa Huyền Không / Cố Đô Huế -VN )  tại Tu Viện Quảng Đức vào ngày 14/4/2024 của khoá tu Bát Quan Trai.

 

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Kính bạch HT Pháp Tông, Trú trì chùa Huyền Không tại cố đô Huế/VN

 

Kính bạch HT Thích Thông Mẫn, Viện chủ Tu Viện Quảng Đức. Melbourne, Úc Châu  

 

Kính bạch TT Thích Nguyên Tạng, trú trì tu viện Quảng Đức kiêm Tổng thư ký GHPGVNTNtaij hải ngoại Úc Châu và Tân Tây Lan, kiêm Ủy viên Hoằng pháp Tăng Già Thế Giới

  

Con, Phật tử Huệ Hương  từ lâu vẫn được hiểu rằng: “ chư Tỳ-kheo là sứ giả của Đức Như Lai, mang thông điệp giải thoát khổ đau, mang hòa bình, an lạc cho mọi người vì Phật giáo là đạo của sự giác ngộ, giác ngộ để giải thoát khỏi tham lam, thù hận”.

 

Vì thế cho nên nhiệm vụ hoằng pháp của vị Tỳ-kheo rất quan trọng trong việc lan tỏa  giáo lý giải thoát của Đức Phật  vào đời để cứu độ chúng sinh, với chủ trương lấy đạo đức, trí tuệ làm cốt lõi cho sự tồn tại và phát triển (sự sống).

 

 Con cũng được học từ kinh điển rằng: Sau khi thành đạo  Đức Phật  đã  du hành đến các nơi rất xa dù rất khó khăn, phải đi bộ, rất hiếm khi được đi nhờ xe bò đó là chưa kể phải băng rừng, lội suối.

“ Này các Tỳ-kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của Trời và người. Chớ đi chung đường với nhau. Này các Tỳ-kheo hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng lúc đầu, cao thượng ở lúc giữa, cao thượng ở lúc cuối trong tâm trí hay trong ngôn từ. Hãy rao giảng sự hoàn hảo viên mãn về đời sống thanh tịnh của trạng thái cao cả...” (Mahavagga I, 11)

 

Do đó việc tiếp nối sự nghiệp hoằng pháp của Phật giáo  (là truyền bá rộng rãi Phật pháp ở khắp nơi) đặc biệt trong thời hiện đại rất là cần thiết nhất là tại Hải ngoại, dù rằng hiện nay phương tiện truyền thông rất đầy đủ nhưng việc thực hành phải tự lập và hết sức khó khăn nếu không nhờ đến những khóa tu bát quan trai.

 

Công việc hoằng pháp gồm nhiều lĩnh vực, nhiều phương tiện và vì thế trong mỗi chương trình thọ bát quan trai tại Tu viện Quảng Đức  đều thực hiện những giờ pháp thoại với nhiều chủ đề khác nhau như  Đạo Phật đi vào đời; Đạo Phật và xã hội, Đạo Phật dấn thân; Đạo Phật nhập thế.

 

 

Phật tử còn ràng buộc gia duyên,

cần phát nguyện, tinh tấn thực hành trọn vẹn(2)

 

Sẽ tích lũy vô lượng công đức khi thực hiện !

 

 

 

Kính tri ân Quý Thầy Tu viện Quảng Đức

cung thỉnh  quý giảng sư  thấu triệt thâm sâu

 

Lại livestream giúp lan tỏa Chánh pháp nhiệm mầu

 

Học từ thân giáo, “dưới chân Thầy”  sự thánh thiện!

Ai , người,  nếu biết dụng tâm tu tập, 

nỗ lực xây dựng hướng đi cho bản thân  thực tiền !

 

 “Lộ trình 5 pháp” để từng bước thành tựu vững vàng (3)

Hiện thực hoá trong đời sống hoà hợp nhẹ nhàng

 

Vô sư trí đã có sẵn trong ta,

chỉ cần thấy ra Sự Thật !

 

Để tồn tại và phát triển thần thông bí mật

Đến từ sáu giác quan, quyền sở hữu tự nhiên

 

Phải tôn trọng, cảnh giác,

bảo vệ khi tiếp xúc cảnh duyên

 

Kính tri ân giảng sư với “trung ngôn nghịch nhỉ”

Giải đáp những vấn đề,

cần sử dụng phương tiện thiện xảo tỉ mỉ

 

Sáng tỏ một Đạo Phật thuần tuý,

giúp xoa dịu phiền não, buồn đau 

 

Giải thoát khổ, khẳng định mục đích tối cao

Nhờ văn, tư, tu  sẽ phân  biệt chính, tà, thiện, ác!

 

Được nghe  pháp thoại,

 trong ngày tu bát quan trai giới thật an lạc !

 

(thơ Huệ Hương)

—————————————————————-

(1) tám giới luật thuộc về  Phật giáo do Đức Phật chế cho Phật tử tại gia: không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, không ngồi giường cao rộng, không ca múa hát xướng và giữ ăn một bữa.

 

(2) Tinh tấn theo bài giảng của HT Pháp Tông là chú tâm Chánh niệm và khi đã khởi đầu thì phải đi đến cùng ( đạt mục đích)

 

(3) TÍN, THÍ , VĂN, GIỚI, TUỆ

Kính bạch Hoà Thượng  Giảng Sư  Pháp Tông và HT Viện chủ Thích Thông Mẫn, và TT Thích Nguyên Tạng trú trì Tu Viện Quảng Đức, trong niềm hoan hỷ và an lạc dù chỉ thọ bát quan trai tại gia và được thính pháp qua livestream con kính xin được trình bày lại với vài cảm nghĩ chân thành nhất.

 

Qua lời giới thiệu của  TT Trụ  trì Tu Viện  Quảng Đức  khi nói về hành trạng HT Pháp Tông ( Với học vị tiến sĩ, kiến thức uyên thâm, niềm tự hào của danh tăng Phật giáo Việt Nam đã được vị trí cao trong hàng giáo phẩm của Giáo hội Phật giáo Thái Lan.) chúng  con đã thật xúc đông khi nghe giọng nói thật hiền hoà ấm áp của HT Pháp Tông đến với chủ đề “Phật học tu tập” theo quan điểm phát triển thật đáng ngưỡng mộ của Ngài và nhất là khi giải đáp những câu hỏi của quý đạo hữu trong đạo tràng khoá tu bát quan trai của Tu Viện Quảng Đức ngày 14/4/2024 vì đó là những câu hỏi rất quen thuộc thường gặp trên hàng trăm buổi pháp đàm của HT Pháp Tông được phát trên YouTube do chùa Huyền Không Official mà  TT.Thích Nguyên Tạng đã đồng ý là Trung ngôn thì nghịch nhĩ ( lời ngay thẳng rất khó nghe) .

 

Mở đầu HT Pháp Tông đã giới thiệu lộ trình trang bị 5 pháp từng bước thành tựu mà người Phật tử cần phải có đó là: TÍN, THÍ, VĂN, GIỚI, TUỆ .

 

Theo đó Tín được hiểu là Niềm Tin, hay còn gọi là Đức Tin mà tôn giáo nào cũng đòi hỏi một tín đồ cần có. Riêng với Đạo Phật thì phân làm hai loại Chánh tín và Tà tín,

 

Chánh tín là khởi niềm tin quyết lòng đi theo con đường của Đức Phật ( bậc đại giác ngộ đã thấu suốt chân lý thoát Khổ)  do đó  phải giải thoát được những khổ đau phiền muộn “Theo Như Lai, tin Như Lai, tôn kính Như Lai mà không hiểu, hiểu sai, hành sai giáo pháp Như Lai dạy, chẳng khác nào phỉ báng Như Lai”

 

“Lành thay! Lành thay! Ai thực sự mến mộ và tín tin Như Lai thì hãy cố gắng noi gương vị Tỳ-khưu chân chánh. Người tôn kính Như Lai nhất là người thực hành đúng giáo pháp mà Như Lai đã chỉ”

 

“Người nào thấy Chánh pháp là thấy Như Lai”.

 

Trong khi Tà tín là tin vào những gì nằm ngoài chân lý thoát Khổ, tin vào những đối tượng không nằm trong lời dạy của Đức Phật, tin vào thông tin  sai lạc những sự hiểu biết, rất vô căn cứ, dẫn dắt con người, đến chỗ tranh chấp, đấu tranh hơn thua, thành kiến bảo thủ, phiền não khổ đau đến từ tham, si sân

 

—-Sang đến THÍ là từ ngữ được dùng để chỉ sự chia sẻ một cái gì đó về vật chất hay tinh thần thường dùng trong Bố thí , đàn na thí chủ . Nhưng đối với những bậc trưởng thượng thì có thể đổi thành nhiều từ khác như: Phụng dưỡng ( cha mẹ ) Cúng dường ( hộ trì tam bảo, tri ân chư Tăng thiền  Đức, Sư Phụ )

 

Nhưng với chữ Thí có nghĩa là phải có một cái gì đó mới có thể chia sẻ, ta không thể không có một chút gì hết mà đòi bố thí được, do đó HẠNH THÍ LÀ MỘT TRONG NHỮNG PHÁP GIÚP CHÚNG TA SỐNG HOÀ HỢP VÀ HIỆN THỰC HOÁ ĐỜI SỐNG. (Có nghĩa là sẵn sàng chia sẻ cho người khác, luôn mang lại niềm vui cho  người) 

 

Có một chút ngoại lệ khi HT nói đến Tinh Tấn không nằm trong 5 pháp cần trạng bị nhưng rất hữu ích cho đạo tràng tu tập đó là Dù cho tinh tấn có nghĩa là siêng năng chăm chỉ nhưng phải nhớ đừng tạo thêm một cái tôi ngã mạn mà chỉ nhớ một điều quan trọng nhất là khi làm bất cứ điều gì thì hãy đặt hết sự chú tâm vào và một khi đã khởi sự một việc gì thì hãy thực hiện cho đến cùng  để hoàn thành mục đích )

 

Riêng phần Văn là Nghe, có lẽ ngày nay nhờ có chữ viết nên kinh điển ngày nay đều được ghi chép lại chứ ngày trước thời Đức Phật chỉ có kinh văn vì thế mỗi một lời dạy Đức Phật thường  lập đi lập lại nhiều lần và những ai muốn thâm nhập lời dạy của Phật đều phải huân tập về Tịnh xá và sau đó phải tư duy ( suy nghĩ) rồi ứng dụng thực hành để mang lại lợi ích cho mình và người.

 

 Vì thế trong  Văn , Tư, Tu, thì phương pháp nghe là quan trọng nhất, ngày nay những ai thường nghe pháp thoại trên YouTube cũng đạt nhiều lợi ích nhất là khi đã tuyển chọn đúng đề tài thích hợp với căn cơ mình.

 

Điều thú vị nhất mà con được nghe hôm nay là HỌC ĐẠO DƯỚI CHÂN THẦY, có nghĩa là người học trò có thể từ thân giáo của người Thầy mà tiến bộ được tâm linh . Kính tri ân Giảng Sư,

 

 

 

Và một điều thật tuyệt vời hôm nay không gì bằng khi được nghe những điều chia sẻ về Giới rất mới lạ đến từ Hoà Thượng Giảng Sư Pháp Tông,

 

Chúng con nhờ đó được phân biệt giới cho cư sĩ tại gia là những điều học mà mình cần phải tiếp thu và biết đâu là lằn ranh  giới hạn để nguyện không vấp phải những hành vi sai lầm.

 

Và phải chăng trong sự phiên dịch từ Pali sang Hán và từ Hán tạng sang Việt ngữ  đã có nhiều thay đổi mà nhiều khi đã trở thành đương nhiên chấp nhận vì theo ngài Giảng Sư thì từ ngữ  sự sống theo định nghĩa  của Pali  có nghĩa là tồn tại ( hiện hữu)  và phát triển , mà một khi còn  có hiện hữu là còn có vấn đề."Vì mọi hiện hữu nó chỉ tồn tại trên những vấn đề.cho nên qua 5 điều học rất cơ bản cho một Phật tử sống đời sống gia đình là:

1) Không sát sinh;

 2) Không trộm, cắp;

 3) Không tà hạnh;

 4) Không nói dối;

 5) Không uống các thứ rượu, các chất men say.

 

Điều thật quan trọng và tuyệt vời khi được đổi cách phát biểu về 5 giới cho người cư sĩ tại gia đều bắt đầu như sau:

—về sát sinh : Con nguyện học , hiểu và tôn trọng bảo vệ sự sống họ muôn loài

— về trộm cắp : con nguyện học, hiểu về quyền sở hữu tự nhiên của bất kỳ sinh linh nào. Tất cả mọi sở hữu của cá nhân, đoán thể, xã hội đều phải được thừa nhận , tôn trọng và bảo vệ

—về tà hạnh ( phải hiểu được hành vi nào là không phạm pháp, ý thức được giá trịa hôn nhân của gia đình.

— về vọng ngữ : Đôi  khi  cũng cần đến sự thông minh trong việc nói dối để không hại người, hại mình

 

 Thì ra các điều học này trở thành 5 giới đều bảo vệ đời sống, bất hại, giữ gìn và phát triển tâm lý hiền thiện, nhân tố của ổn định đời sống xã hội đúng như như bài kệ mà Đức Phật đã đọc cho những người Koliya tìm đến Ngài như sau

 

“Tháo vát trong công việc

Không phóng dật, nhanh nhẹn,

Sống đời sống thăng bằng

Giữ tài sản thâu được

Có tín, đầy đủ giới

Bố thí, không xan tham.

Rửa sạch đường thượng đạo

An toàn trong tương lai

 

Đây chính là tâm pháp

Bậc tín chủ tìm cầu

Bậc chân thật tuyên bố

Đưa đến lạc hai đời:

Hạnh phúc cho hiện tại

 

Cũng như trong Trường bộ kinh 2- bài 31 Kinh Thiện Sinh (Singàla),, ghi lời dạy của Đức Phật về sáu mối tương hệ xã hội và hạnh phúc gia đình rằng:

 

1. Mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái

2. Thầy – Trò

3. Chồng – Vợ

4. Cá nhân và láng giềng

5. Chủ nhân và Cộng sự

6. Người tu và người đời

 

Riêng đối với người xuất gia, giới chỉ xuất hiện sau kỳ hạ thứ 13 của Đức Phật và đây là những quy định bắt buộc về Sát,Đạo, Dâm, Vọng và nếu không tuân theo thì phải bị trục xuất khỏi  Tăng Đoàn.

 


 

Sang đến phần Tuệ , giảng sư đã giúp các Phật tử phân biệt rằng Tuệ không phải do kiến thức mà nó đến bằng sự thấy ra sự thật ( chân lý)

Ngài cũng chỉ rõ thế nào là VÔ TRI TRÍ = CÁI BIẾT = VÔ PHÂN BIỆT TRÍ không do tu tập , không do rèn luyện có sẵn trong ta mà Đức Phật thường dạy “ Trong cái Thấy chỉ là cái thấy “

 

Và một cái PHÂN BIỆT TRÍ ( do học, do sự phân biệt , suy đoán) mà tất cả được

gây ra do các động cơ tâm lý tham lam, sân hận, si mê (tà kiến) như đức Phật đã tuyên bố trong kinh Tăng Chi

 

      “Này các Tỷ kheo, có ba căn bản của sai lầm. Thế nào là ba? – tham, sân, si.

Bất cứ việc gì kẻ tham lam thực hiện với thân, lời và ý là sai lầm...Bất cứ gì người sân hận thực hiện với thân, lời và ý là là sai lầm...Bất cứ việc gì người si thực hiện với thân, lời và ý là sai lầm...”

 

 Ba căn bản bất thiện ấy dấy khởi từ vô minh, từ nhận thức cho rằng mọi hiện hữu đều có tự ngã riêng và thường hằng, bất biếnkhởi lên từ duy ngã tính và bị ám ảnh bởi ý niệm “tôi hiện hữu”, “tôi đã hiện hữu”, “tôi phải hiện hữu”, “mong rằng tôi sẽ hiện hữu” nuôi dưỡng tham ái và chấp thủ.

 

Như vậy “Đức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình” . (Tiến Sĩ Oldenburg, Một học giả Đức).

 

Và theo HT Pháp Tông Tuệ giác  chính là sự soi sáng vào bên trong chính mình, như nhìn vào một tấm gương nhận thấy những phiền não, buồn vui như chúng là và không tương tác phản ứng (Theo tinh thần Tứ niệm Xứ )

 

Đến đây đã hết giờ cho pháp thoại,  nên có các câu hỏi được nêu lên từ quý đạo hữu thọ giới bát quan trai

 

1- Tại sao tất cả đều tuân theo luật nhân quả thì cầu an và cầu siêu trong Phật giáo có đúng không

 

Đáp : Khi bạn đau bệnh bạn có uống thuốc để giảm đau không ? Phật giáo không phủ nhận về vấn đề nhân quả nhưng trước nhất việc cầu an và cầu siêu có nhiệm vụ hỗ trợ để an tâm chứ không phải là yếu tố quyết định

 

2- Người chết khi được cầu siêu có được thực sự vãng sanh hay siêu thoát không ?

 

Đáp: Với sự hộ niệm và cầu siêu có 2 trường hợp xảy ra :

-Đối với người có tu tập sẽ nhận được năng lượng trực tiếp vì trong trời đất vẫn luôn có những luồng linh khí bàng bạc sẽ tương ưng

Đối với người không tu ít ra cũng tạo một duyên lành cho họ để nối kết và sẽ giúp người thân ở lại an lòng hơn như đã chia sẻ được tấm thân tình

 

3- Người chết khi sống không quy y , đến khi chết, mời Thầy đến cho một pháp danh thì pháp danh đó có giúp ích gì không?

 

Đáp : Thật ra tên không quan trọng bằng tự thân tu tập, Hãy coi pháp danh đó như một thứ tên mà các Đức vua sau khi băng hà được gọi là Thụy hiệu

Hãy làm việc thiện lành quy y để có pháp danh khi còn sống sẽ tốt hơn

 

4-Con thường được học rằng Giới sanh Định, Định sanh Tuệ có phái đúng như thế không?

Đáp: Không đúng lắm vì Tuệ ở đây là Thấy ra Sự Thật 

(ghi chú HT có bài giảng trên youtube Thiền định không sinh ra trí tuệ )

 

Lời kết

 

Có lẽ  lần thứ hai này khi được mời  đến Tu  viện Quảng Đức, nhờ vào kinh nghiệm của năm trước (16/4/2023) cho nên hôm nay  HT Pháp Tông  với một công trình biên khảo công phu đã nêu dẫn đầy đủ các mặt nội dung giáo dục để chỉ rõ giáo lý của Đức Phật  với tư cách vừa là một học thuyết giải thoát về cách sống lương thiện tốt đẹp cho con người, vừa là một học thuyết không phân biệt đại thừa và tiểu thừa  đã có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành nền tư tưởng mới của người Phật Tử ở vào thời đại công nghệ hiện nay.

 Đó chính là sự tu dưỡng và hoán chuyển nội tâm mình là bổn phận quan trọng nhất trong đời sống chúng ta, có nghĩa là đời sống hướng đến sự thăng hoa tâm linh là phản ứng tất yếu và cần thiết cho đời sống của mỗi người mà không hề dành riêng cho ai hết.

 

Thật là một trùng hợp đặc biệt vì chỉ còn đúng một tháng nữa là người Phật tử lại hân hoan chào đón đại lễ Vésak= PL 2568( lễ Phật đản 2648)   mà Liên Hiệp Quốc đã tôn vinh từ năm 1999.

 

Con còn nhớ ngày trước trước, Hòa thượng Thích Chơn Thiện từng phát biểu rằng : “Phật giáo, qua lời dạy của Đức Phật, giới thiệu đến đỉnh cao của nền văn hoá giải thoát toàn triệt các khổ đau vật lý, tâm lý gọi là văn hóa giải thoát (tâm giải thoát và tuệ giải thoát: nếp sống bàng bạc hạnh phúc nội tâm, phát triển sung mãn các năng lượng tâm lý, và với trí tuệ thấy rõ tường tận sự thật của mọi hiện hữu).”

 

 Và HT Thích Chơn Thiện đã nhấn mạnh  thêm “con đường giảng dạy đó của Đức Phật làm nên một nền văn hoá của Phật giáo bao hàm đủ các cấp độ phát triển văn hoá từ xưa đến nay của nhân loại: công bằng (đạo đức xã hội) như các hệ thống pháp luật, quản trị; nhân ái, vị tha, khoan dung (đạo đức cao hơn mức văn hoá công bằng); khách quan, theo các quy luật khách quan của cuộc sống (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học vật lý, thuần tuý); và vượt lên cao và xa hơn nữa là cấp độ văn hoá rất nhân văn, rất tinh thần, gọi là văn hoá tinh thần, tâm linh.

 

Thật hoan hỷ thay ! Thật an lạc thay ! Con xin thành kính đảnh lễ Sư Thúc !

 

Con xin kính chúc Sư Thúc  có thật nhiều sức khỏe để  tải truyền giáo pháp Phật đến cho những thế hệ mai sau.

 

Con kính chúc Hoà Thượng Viện chủ và Thượng Toạ trụ trì Tu viện Quảng Đức luôn được phước trí  tròn đầy, luôn hoằng  pháp độ chúng sanh, thấm đạo, tu giải thoát.

 

Và sau hết con kính chúc khoá tu bát quan trai của đạo tràng Tu Viện Quảng Đức mãi mãi đạt được  thăng tiến trên bước đường tâm linh và sẽ viên mãn nhờ phát nguyện, tinh tấn tu tập để sống trọn vẹn.

 

Kính trân trọng,

 

Úc Châu 14/4/2024

Phật tử Huệ  Hương.



Bat Quan Trai_14_4_2024 (41)



Tự vấn ! 

Có lẽ học Đạo ngày nay 

cũng nên xét xem có đủ được ba việc? (1) 

Như Khổng Tử  đã tự vấn, chỉ đổi lại điều ba 

Thay vì dạy bảo, 

hãy  trình bày chia sẻ điều đã nhìn ra, 

“Khi hiểu được, đọc được cuốn sách chính mình, 

Cổ Đức dạy ngày kia trở nên Người GIÁC NGỘ “!  



 Dù bước đường này rất dài, rất nhọc khó 

Nhưng ai…

 cũng có quyền khám phá, tự nguyện kiếm tìm

Đến lúc nào đó qua trải nghiệm tiến trình 

“Thấy được Sự thật đã có sẵn trong trời đất!” 



Đạo rất bình thường, trong sáng không gì bí mật ! 

Thời đại công nghệ, 

hãy sống như đi trên dòng sông

Tuỳ duyên đối trị , 

thể hiện tư duy thành thạo, hài lòng 

Học hỏi trân trọng, thích ứng cách linh hoạt! 



Mạnh dạn nhận diện “ Tùng địa dõng xuất “

Trong đau thương với  bản lãnh chân thực, vững vàng 

Mọi nơi mọi lúc, “trực tâm thị đạo tràng” 

Ồ , hoá ra tương giao trong trật tự vận hành

 vốn rất hoàn hảo của pháp! 

 

Huệ Hương 

***************

(1) nhìn lại mình có đủ 3 việc mà Khổng Tử đã tự vấn: 

1- Lặng yên nhớ điều đã học, 2- kiên trì học tập không biết chán, 3- dạy bảo người khác không biết mệt mỏi, ta đã làm được việc nào trong ba việc ấy?(Mặc nhi thức chi, học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện, hà hữu ư ngã tai? )Khổng Tử 

 





Bat Quan Trai_14_4_2024 (35)Bat Quan Trai_14_4_2024 (36)Bat Quan Trai_14_4_2024 (37)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 11784)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16088)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11071)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7433)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19781)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4356)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4098)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3556)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13060)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 3039)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]