Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có phải tiêu chỉ “Cư Trần Lạc Đạo” của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông vẫn luôn thích hợp trong việc tu tập cho Người Phật Tử thời đại công nghệ ?

03/04/202417:01(Xem: 1646)
Có phải tiêu chỉ “Cư Trần Lạc Đạo” của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông vẫn luôn thích hợp trong việc tu tập cho Người Phật Tử thời đại công nghệ ?


tt nguyen tang 2020
Có phải tiêu chỉ  “Cư Trần Lạc Đạo” của Điều   Ngự Giác Hoàng Trần  Nhân Tông  vẫn luôn thích hợp trong việc tu tập  cho Người Phật Tử thời đại công nghệ ?

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Lời nói đầu

 

Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni.

Kính thưa quý đạo hữu Phật Tử,

 

Từ khi học được lý trùng trùng duyên khởi  của Hoa Nghiêm, con mới biết mỗi một sự vật đều được kết nối nhau trong một thế giới sống động và đa dạng phi thường.

 

Các pháp không đâu đến

Cũng không có tác giả

Cũng không từ đâu sanh

Thức chẳng thể phân biệt.

 

Tất cả pháp không đến

Vì thế nên không sanh

Vì là không có sanh

Nên cũng không có diệt.

 

Tất cả pháp vô sanh

Tất cả pháp vô diệt

Nếu biết được như vậy

Người này thấy được Phật.

 

Vì các pháp vô sanh

Nên không có tự tánh

Phân biệt biết như vậy

Người này đạt thâm nghĩa”

 

(Kệ trong phẩm Dạ Ma  thứ 20 / Kinh Hoa Nghiêm )

 

Quả đúng vậy, chỉ vì một ý nguyện  muốn đền đáp ân  hội ngộ và duyên được cộng tác với Trạng  nhà Quảng Đức do TT Thích Nguyên Tạng Trụ trì Tu Viện  Quảng Đức kiêm  và Tổng Thư Ký GHPGVNTN tại Hải ngoại Ức Châu & Tân Tây Lan làm chủ biên  mà một lần nữa con có đại duyên con được tham khảo lại toàn bộ Cư Trần Lạc Đạo khi  đoc qua chi tiết về Tu Viện Quảng Đức để rồi tìm lại một sưu tập cũ thật quý giá có liên quan đến bài Cư Trần Lạc Đạo khiến con suy ngẫm và tư duy nhiều đêm nên cuối cùng  kính xin mượn bài viết để nhận sự chỉ dạy của quý Ngài.

 

Kính bach quý Ngài

 

Chi tiết dẫn đến đại duyên hôm nay đó là .....“Ngày 10 tháng 12 năm 2000, Tu viện đã tổ chức lễ Đặt Viên Đá đầu tiên để tiến hành công trình xây dựng. Sau ba năm dài kiến thiết, ngôi chánh điện và hội trường sinh hoạt được xây dựng hoàn thành với tổng chi phí là 2 triệu Úc Kim..

 

Tiếp đó là Đại lễ khánh thành Tu Viện Quảng Đức đã được long trọng tổ chức vào ba ngày 10, 11 và 12 tháng 10 năm 2003, đánh dấu một chặng đường mười ba năm có mặt Tu Viện Quảng Đức trên xứ Úc. Trong dịp lễ đặc biệt này cũng là Đại hội Bất thường Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và lễ suy tôn Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang lên ngôi vị Đức Đệ Tứ Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại quê nhà.”

 

Kính bach quý Ngài, chỉ nhờ chi tiết đó mà con phải đợi đến hơn 20 năm sau, trong một dịp sưu tập lại những tài liệu quý báu mới lưy tâm đến  nguyên văn bản THÔNG ĐIỆP CƯ TRẦN LẠC ĐẠO - XUÂN NHÂM NGỌ -2002 từ Viện  Tăng Thống / GHPGVNTN mà trong dó Đức Ngài  Đẹ Tứ Tăng Thống HT. Thích Huyền Quang viết rằng “ Từ nơi lưu đày quạnh hiu ở Quảng Ngãi,  vẫn an nhiên vui hưởng “ Cư Trần Lạc Đạo”  và Ngài nhấn mạnh … đó chính là tiêu chỉ của nguồn thiền Trúc Lâm  Yên Tử  do Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông.

 

Từ lâu con đã nghe rất nhiều bài giải thích về bài kệ này. Đây chính là kệ kết thúc trong bài Phú cùng tên Cư Trần Lạc Đạo gồm 10 hội mà HT Thích Nhất Hạnh đã dịch ra văn xuôi và cho rằng “Đây là trái tim của Trúc Lâm Đại Sĩ, và trong địa vị văn học, đây là sáng tác tiếng Nôm đầu tiên tại Việt Nam.

 

Bài Phú này trình bày phương pháp tu tập của Trúc Lâm Đại Sĩ theo những điều căn bản của người đệ  tử Phật với tâm thanh tịnh, chân thật.mà  KỆ KẾT THÚC đã được giảng dạy và nhắc đến nhiều nhất.

 

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.

Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch;

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.”

 

Dịch là

 

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,

Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

 

Thật ra,  con cũng đã học và ghi chú lại nhiều lời giảng của nhiều Thầy trong nước và ở hải ngoại , nhưng riêng với thông điệp của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đã làm con xao xuyến,xúc động mãi không thôi đồng thời như một lời sách tấn khuyến tu để phát Bồ đề tâm dõng mãnh bước vào con đường Đạo mà Đức Thế Tôn đã khai thị từ hơn 2565 năm nay.

 

Được biết:  Tác phẩm “Cư trần lạc đạo phú” được viết theo lối phú luật hay phú cận thể của thời thịnh Đường, gồm 10 hội dài bằng chữ Nôm và một bài kệ bằng chữ Hán kết thúc bài. Mười hội dài phô diễn những quan điểm của người tu giữa chốn trần ai, cùng các điểm khai ngộ lý thiền. Thi kệ yết hậu chính là phần kết luận của bài phú, tóm lược lại tất cả những tinh yếu của toàn bài..Đại ý của bài kệ này nói rằng: “Mỗi con người hãy nên sống hòa mình với đời, không câu chấp; Hành động tùy duyên, tức là làm việc cần làm, đúng lúc phải làm và không trái quy luật tự nhiên; Tự tin vào mình, trở về khơi dậy tiềm lực của chính mình, không tìm cầu tha lực; Không nô lệ vào bất cứ cái gì, dù Thiền hay Phật.”

 

Một điều đáng quan tâm,hơn hết của  “Cư trần lạc đạo phú” bởi đây chính là một tác phẩm bằng chữ Nôm tiêu biểu đánh dấu quá trình phát triển của hệ thống văn tự Việt Nam, chuyển từ chỗ sử dụng chủ yếu chữ Hán của Trung Quốc sang coi trọng và chủ động sử dụng chữ Nôm (chữ viết do người Việt Nam tạo ra để ghi âm tiếng Việt).Những lời thuyết pháp được viết bằng chữ Nôm ấy không phải là dịch trực tiếp từ kinh Phật viết bằng chữ Hán hay bằng chữ Phạn (một loại chữ Ấn Độ cổ), mà đó là những tổng kết ngắn gọn dưới dạng thơ, phú hoặc là những diễn giải tư tưởng Phật học dưới lăng kính của người Việt Nam. Trong số này tiêu biểu có tư tưởng nhập thế, tự lực và tùy duyên của Vua Trần Nhân Tông thể hiện trong bài phú "Cư trần lạc đạo" của mình..

 

Tư tưởng đó được đúc kết trong một bài kệ theo thể Thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán. Và bây giờ

kính mời xem lời diễn giải rất ngắn gọn của Sư ông Làng Mai qua từng hội như sau:

 

-Hội thứ nhất “người tu Bụt yêu chuyện đọc kinh xem luận, cho nếp sống thanh thản còn quý giá hơn cả hoàng kim”

 

-Hội thứ hai :  Cái quan trọng nhất là làm cho tâm mình thảnh thơi, ngoài ra không có pháp môn tu học nào mầu nhiệm như thế. Gìn giữ tính sáng thì mới mong đem tới cho ta an lạc. Ngăn ngừa vọng niệm thì vọng niệm không thể nào không dừng lại.

Vượt thoát được ý niệm ta và người thì thật tướng kim cương của tâm biểu hiện, chuyển hóa được hết tham sân thì mới thấy được diệu tâm viên giác.

 

Tịnh độ chính là tự tâm thanh tịnh của ta, không cần phải hỏi rằng có hay không có tịnh độ ở Tây phương. Di đà là tự tính sáng soi của ta, không cần phải nhọc nhằn tìm về một cõi Cực lạc ở đâu đó nữa.

 

-Hội thứ ba: Một khi đạt được cái thấy biết, thì mọi lầm lỗi trong quá khứ sẽ biến thành hư không, và các phép luyện tập về ba học giới định tuệ sẽ được thông suốt. Gìn giữ được tính sáng của chân tâm, thì không còn lạc vào con đường tà đạo, và do đó con đường tu học sẽ là con đường chính tông.

 

Tuy còn sống trong cõi trần tục mà ta vẫn thành công được trong sự tu tập, niềm hạnh phúc ấy ta yêu chuộng hết lòng. Dù có ở chốn núi rừng mà chưa có được tuệ giác, thì tai họa vẫn còn, thật chẳng đáng cho ta uổng phí công phu.

 

Nếu hết lòng phát nguyện cầu được thân cận minh sư, thì cho quả vị Bồ đề có thể trong nội một đêm mà chín, Có phúc được gặp gỡ người thiện tri thức, thì đóa hoa Ưu Đàm chẳng cần mấy kiếp cũng có thể đơm bông.

 

-Hội thứ tư: Biết chất chứa nhân nghĩa, biết tu tập đạo đức, ai trong chúng ta mà lại không phải là Bụt Thích Ca? Biết nghiêm trì giới hạnh, biết chặt đứt ghen tham, những kẻ ấy không ai không là Bụt Di Lặc.

 

-Hội thứ năm: cần Hộ trì tám loại tâm thức (nhãn thức, nhĩ thức, v.v..), chống được với tám ngọn gió (lời, lỗ, nhục, vinh, khen, chê, khổ, sướng) không phải bằng cách đè nén chúng. Làm bật trong huyền môn, trình bày ra ba yếu chỉ, bằng cách mài dũa và cắt xén từ từ.

 

-Hội thứ sáu: chỉ cần thực tập vô tâm là tự nhiên ta được đi vào con đường chính đạo. Biết làm thanh tịnh ba nghiệp thì mới có được bình yên ở thân và tâm, tới được chỗ nhất tâm thì mới có thể thông đạt lời dạy của chư Tổ.

 

-Hội thứ bảy : Nhớ ân nghĩa các bậc thánh tăng, yêu thương mẹ cha, theo chí thờ thầy mà học đạo. Yêu chuộng đức độ của Bụt Gotama, tránh con đường hưởng thụ, một lòng giữ giới và ăn chay

 

Cảm được đức từ bi, kiếp kiếp nguyền xin cho thân cận. Nhớ mãi công cứu độ, dù có phải đời đời chịu đựng đắng cay.

 

-Hội thứ tám : Xem kinh, đọc lục, làm cho cả hai cái (thấy) và (biết) đều được ngang nhau. Kính Bụt, tu thân, đừng xem thường những điều nhỏ nhặt. Chỉ nên tập rèn, đừng bỏ học hỏi.

 

-Hội thứ chín : Các phép thiền cơ mà chư Tổ đem dạy, tuy có nhiều đường, nhưng cũng không khác nhau bao nhiêu gang tấc,

 

-Hội thứ mười : Đam mê danh lợi, thổi phồng nhân ngã, đó đích thực là những kẻ phàm phu. Mến chuộng đạo đức, chuyển hóa thân tâm, đây quyết định đưa về thánh trí..

 

Tóm tăt những diều đã học trên khiến con rất vui mừng khi đọc đi đọc lại THÔNG ĐIỆP CƯ TRẦN LẠC ĐẠO - XUÂN NHÂM NGỌ -2002 từ Viện  Tăng Thống / GHPGVNTN và cuối cùng kính xin trích đoạn  nguyên văn thông điệp được gửi từ Văn Phòng Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống PL 2545-Quảng Ngãi, Xuân Nhâm Ngọ 2002 .

 

Thay mặt Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN  :

 

“ Cư Trần lạc đạo có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo, vui đạo, sống đạo, dựng đạo, hưng đạo chứ không lánh xa trần thế đầy khổ nhục làm thú riêng cho bản thân.

 

Hiện diện nơi trần thế, nói lên con đường hành động cứu nhân độ thế của Phật Giáo Việt Nam. Việc ấy đã thực hiện , đã chứng tỏ, suốt lịch sử hai nghìn năm Phật Giáo, đặc biệt dưới các triều đại tự chủ và độc lập, từ thuở Hai Bà Trưng cho đến thời hiện đại . Sự thành bại không đáng quan tâm cho bằng ý chí kim cương bất hoại của người Phật Tử. Ý chí ấy còn, Đạo Phật còn, dân tộc sẽ trường tồn trong cường thịnh, vinh quang và thái hoà, nhân loại sẽ bước vào kỷ nguyên huynh đệ,  đại đồng.

 

Chính nhờ lời chỉ dạy này, dựa vào ý nghĩa này con đã sáng tác một bài thơ bằng sự tự thể nghiệm như sau:

 

Hãy đến với nhau!

Phải chăng …

vào  tuổi thu đông mới chiêm nghiệm được ?

Nhân loại luôn đối xử bằng tình cảm tương thân,

Ngoại lệ đôi khi gặp

sự lạnh lùng không cảm xúc vài cá nhân,

 

CHẤP NHẬN: mỗi người đều 

mang trong mình thành kiến, sự ràng buộc!

PHẢI TẬP SỐNG:

Giữ được sự quân bình và sáng suốt !

 

Vì mỗi bản thân

là một mắt xích trùng trùng duyên khởi của cõi trần

Cứ luân hồi mãi chịu theo cuộc xoay vần

ĐẾN MỘT LÚC kiếm tìm hạnh phúc nhận ra :

Đó chỉ là “miếng mồi ngon của nghiệp chướng” !

 

Hãy hành xử bằng cách:

đến với nhau mà không bị ảnh hưởng,

Từ sự đố kỵ, so sánh, mù quáng không có lòng tin

Nào cùng nhau trực  diện nội tâm….hành xử với nhân sinh

Nguyện nguyện hứa theo tiêu chuẩn “ Cư Trần Lạc Đạo”

 

Thành bại không đáng quan tâm,

cốt sao gội nhuần tạo hoá !

Bằng  ý chí kim cương bất hoại,

dù cuộc đời như trải một giấc mơ dài

Khói mù mưa bụi khiến  lệ hoen lúc chia tay

 

Thế  nhân ơi …

Thả trôi những hận thù, dừng gót phiêu du

“Giữ chân tâm vào nơi không trụ!”

Đến với nhau như đứa trẻ ban sơ, nụ hoa vừa nhú !

Còn nữa trong thông điệp này, Đệ Tứ Tăng Thống HT. Thích Huyền Quang đã nhấn mạnh: “Theo đúng tinh thần Cư Trần Lạc Đạo như thế, người Phật Tử mới bảo toàn được Phật tính con người trên mặt đất, đồng lúc bảo vệ phẩm giá đồng bào và nhân loại, đồng lúc bảo vệ sự toàn vẹn tâm linh nơi mỗi cá nhân”..

Và con đã rơi lệ khi dọc câu này “SỰ TOÀN VẸN TÂM LINH CON NGƯỜI CHẲNG KHÁC CHI SỰ TOÀN VẸN LÃNH THỔ MỘT QUỐC GIA “ ….

 

Ngài kêu gọi nam nữ Cư sĩ Phật Tử trong và ngoài nước, trong tinh thần và chí nguyện Cư Trần Lạc Đạo hãy phát Bồ Đề Tâm, dõng mãnh bước lên con đường Đạo cứu khốn trừ nguy mà Đức Thế Tôn đã khai thị, cùng lịch đại Tổ Sư đem lại an lạc cho người con Phật.

 

Lời kết:

Kính bạch quý Ngài,

 

Con đã học từ quý cao Tăng rằng “Khi mới tu, thường hiểu Kinh Điển theo một lối mòn vạch sẵn thì chẳng thấy gì cả, về sau tự mình khám phá Sự Thật qua trải nghiệm, chiêm nghiệm , lắng nghe, học hỏi pháp ngay trong đời sống chính mình mà thấy ra, lúc đó đọc lại Kinh Điển mới thực sự thấu hiểu, thì ra lời Phật dạy thật tuyệt vời”,

 

Với lời kêu gọi hào hùng của Đệ Tứ Tăng Thống “ Từ  nơi lưu đày hiu quạnh , tôi vẫn cư trần lạc đạo” khiến hậu bối chúng con nhớ lại Cụ Phần Bội Châu khi bị giam lỏng tại Cố Đô Huế , “một mình một bóng, mình nói mình nghe “ đã tìm sự an định trong câu kinh tiếng kệ, vui với cảnh Thiền ( trong bài thơ Đêm ngồi một mình 1933) mà càng quyết tâm nghe theo lời dạy của Đệ Tứ Tăng Thống vậy

 

“Năm canh chuông mõ nghe đâu Phật

Bốn mặt non sông vắng ngát người” ….

 

Hoặc:

 

“Vẫn ung dung tự tại

 không vì một miếng đỉnh chung

Ba gian nhà dột, trời soi bóng

Mấy tấm rèn thưa gió chọc đầu

Sớm tưới cành hoa, mây tới phủ

Đêm đêm kinh Phật , Nguyệt vào hầu “

 

 

Vơi trí óc thô thiển của con và đã từng nghe lời dạy của Ôn Làng Mai HT Nhất Hạnh con đã tự ghi vào cẩm nang mình như sau :

 

Muốn Cư Trần lạc đạo được như Đệ Tứ Tăng Thống, muốn thực tập theo tinh thần Cư Trần Lạc Đạo, tức là ở trong chốn bụi bặm mà có hạnh phúc với chánh pháp thì phải biết áp dụng nguyên tắc tùy duyên, phải biết chấp nhận và hạnh phúc với những điều kiện sẵn có, gọi là tùy duyên. Chỉ cần biết chấp nhận là thấy khoẻ liền, là lạc đạo liền. Nếu không biết chấp nhận thì đi đâu ta cũng không có hạnh phúc. Đó là nguyên tắc đầu của Cư Trần Lạc Đạo.

 

Chúng ta cần vững chãi, cần thảnh thơi, cần an lạc, thì  phải biết bản chất và phương pháp nào để làm thỏa mãn những nhu yếu đó . Khi nào buồn thì ta biết làm thế nào để cho bớt buồn, khi nào giận thì ta biết làm thế nào để cho bớt giận, khi nào cô đơn thì ta biết làm thế nào để cho hết cô đơn, khi nào thiếu vững chãi thì ta biết làm thế nào để đem vào tâm hồn mình những chất liệu vững chãi…

 

Đừng có chạy đi đâu để tìm kiếm nữa hết vì những cái ta cần đã có sẵn ở trong ta rồi. Những gì xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của ta thì ta phải biết đáp ứng lại với những sự kiện đó bằng thái độ vô tâm, . Nếu ta muốn thật sự có hạnh phúc, có tự do thì ta phải có thái độ vô tâm

 

Vô tâm ở đây có nghĩa là không vướng mắc cũng không chán ghét. Tức là ta không bị vướng vào trong hai cực: tham đắm và chán ghét mà phải luôn luôn chánh niệm nghĩa là là cái gì đang xảy ra thì ta biết là cái gì đang xảy ra, đang xảy ra trong lòng ta hay đang xảy ra xung quanh ta, và ta phải ý thức được nó..”

 

Lời cuối con kính trân trọng tri ân quý minh sư mà con đã được thân cận trong nhiều năm qua  đã tạo rất nhiều cơ duyên cho con  được gặp gỡ nhiều  thiện hữu tri thức khắp mọi miền Âu, Mỹ, Úc, Á .

 

Trong niềm hoan hỷ đó kính chúc quý Chư Tôn Thiền Đức và quý đạo hữu sớm đạt được quả vị bồ Đề nở chín cũng như Hoa Ưu Đàm có thể đơm bông trong kiếp này.

 

 Kính chúc sức khỏe quý Ngài và kính trân trọng chia sẻ..

 

Úc Châu 4/4/2024

Phật tử Huệ Hương

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2015(Xem: 14124)
Sương mù bàng bạc ùn lên lãng đãng trộn lẫn với ngàn mây trắng bao la, hòa quyện cùng hương rừng gió núi, chập chùng trên tuyệt đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, chờn vờn ngất tạnh bay quanh pháp hội Linh Sơn vào một thời xa xưa, cách đây mấy nghìn năm rồi mà tưởng chừng như mới hôm nào, vẫn còn nghe văng vẳng những lời thơ bất hủ của Thế Tôn vang vọng trầm hùng :
07/04/2015(Xem: 3975)
Những con người Tây Phương này, họ tụ lại đây để tìm về hơi thở của chính mình. Hơi thở họ bị ngắt quãng. Đứt đoạn. Họ đến đây để nối hơi thở liền lạc thành một hơi thở sâu lan toả khắp thân tâm. Ngày nào cũng lắng nghe ghi chép quay (với sự đồng ý của họ), kín đáo ghi để tôn trọng không khí tự nhiên của các hoạt động, các cuộc trò chuyện. Tôi muốn đóng vai người ngoài cuộc để không bị những cảm xúc, chia sẻ kia tác động, bởi tôi vốn rất nhạy cảm với đau khổ của người khác.
01/04/2015(Xem: 3710)
Những ngày tàn xuân năm ấy, gió bấc thổi không mang theo giá lạnh mà lại thốc vào cả một luồng bão lửa nóng bức, kinh hoàng. Không ai mong đợi một cơn bão lửa như thế. Bão lửa, từ bắc vào nam, từ cao nguyên xuống đồng bằng, từ rừng sâu ra hải đảo, từ thôn quê vào thị thành… thiêu rụi bao cội rễ của rừng già nghìn năm, đốt cháy bao cành nhánh của cây xanh vườn tược. Tất cả mầm non đều héo úa, quắt queo, không còn sức sống, không thể đâm chồi, nẩy lộc. Tất cả những gì xinh đẹp nhất, thơ mộng nhất, đều tan thành tro bụi, hoặc hòa trong sông lệ để rồi bốc hơi, tan loãng vào hư không. Màu xanh của lá cây, của biển, của trời, đều phải nhạt nhòa, biến sắc, nhường chỗ cho màu đỏ, màu máu, màu đen, màu tuyệt vọng.
31/03/2015(Xem: 6448)
Thành phố Adelaide, tiểu bang South Australia có một dòng sông nhỏ chảy ngang. Buổi chiều thảnh thơi. Nắng hanh vàng trên lá. Gió đuổi nhau làm xôn xao ngọn cây phong bên bờ. Những con chim nhỏ rộn ràng, riú rít trên cành. Gió lay động mặt hồ tạo nên những gợn sóng nhỏ nhè nhẹ, nhấp nhô, đuổi theo nhau không dứt khiến trong lòng dâng lên cảm giác êm đềm, thanh thản, bình yên.
31/03/2015(Xem: 14461)
Đêm ngày 29/03/2015 tại Viện Âm nhạc quốc gia đã diễn ra chương trình Hát trong vườn xưa - Đêm thơ nhạc của Thầy Nhất Hạnh và các học trò. Một chương trình thật ý nghĩa và tạo nhiều cảm xúc được đồng tổ chức bởi Thái Hà Books, Life TV và VIM.
30/03/2015(Xem: 3721)
Có một thời dâu bể Nước mắt là huyết lệ Nụ cười chỉ tái tê Đời chìm vào cơn mê... Tôi muốn nói đến cái mốc thời gian cách đây 40 năm chính là tháng tư đen , nhưng lại là dấu ấn thắm màu máu đỏ đóng trên trang sử Việt Nam cũng là lằn ranh phân định hai đoạn đời trước, sau năm 75 của người dân miền Nam nói chung và đời nhà giáo của tôi nói riêng, thật hoàn toàn tương phản!
27/03/2015(Xem: 3225)
Cả thế giới đang nói về một ông già chín mươi mốt tuổi vừa nằm xuống. Nói với tất cả lòng kính phục và ngưỡng mộ: quốc phụ Lý Quang Diệu. Ông là người gốc Quảng đông, đã bốn đời trôi dạt đến hòn đảo bé nhỏ nằm giữa thủy đạo Ấn độ dương và Thái Bình Dương. Tổ phụ của ông, cũng như những người Quảng Đông ở Hội An, Ninh Hòa, Chợ Lớn, vì đất nước Trung Hoa loạn lạc đói nghèo phải bỏ xứ mà đi tìm đất sống. Ta có thể hình dung họ qua hình ảnh những người Tàu bán cóc ổi, mực khô lặng lẽ trước các cổng trường, những người ở dưới mức nghèo khó trong xã hội. Nghèo, nhưng họ là những người rất giàu nghị lực và ý chí. Đó cũng là cội nguồn làm nên ông, một con người có thể gọi là vĩ đại.
25/03/2015(Xem: 14729)
Thanh Lương là bút hiệu của Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng Trí, sinh năm 1956, lớn lên bên dòng sông Cửu Long giữa trời thơ đất mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, vốn từ bi, hiếu thảo, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày, thích ăn chay và học hành ở trường lớp thì tinh tấn, luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.
20/03/2015(Xem: 4477)
Quyển sách thứ 64 nầy tôi bắt đầu viết vào ngày 6 tháng 6 năm 2014 nhằm ngày mồng chín tháng năm năm Giáp Ngọ tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, nhân mùa An Cư Kiết Hạ tại đây. Trong đầu đang dự định là mỗi năm sẽ viết một cuốn về nước Nhật, nước Đức, nước Úc, nước Mỹ v.v… để giới thiệu với quý độc giả xa gần, nhất là những vị nào chưa có cơ duyên đi và đến cũng như ở tại các nơi ấy nhiều năm tháng, thì đây là những quyển sách nhằm giới thiệu một khía cạnh nào đó dưới cái nhìn chủ quan của Tác giả, chưa hẳn đã đúng toàn diện. Tuy nhiên, muốn hoàn thành một việc lớn, không thể thiếu những ý niệm lúc ban đầu, dầu cho việc ấy có nhỏ nhiệm đến đâu đi chăng nữa, nhiều khi cũng là một vấn đề cần thiết.
11/03/2015(Xem: 17523)
Mai năm nay nở sớm trước Tết. Qua Tết thì những cánh hoa vàng đã rụng đầy cội, và trên cây, lá xanh ươm lộc mới. Quanh vườn, các nhánh phong lan tiếp tục khoe sắc rực rỡ giữa trời xuân giá buốt. Đêm đến, trời trong mây tịnh, vườn sau đón ngập ánh trăng, tạo một không gian huyền ảo lung linh. Đã không có những ngày xuân rực nắng, không có những đêm xuân ấm cúng tiếng đàn câu ca và những chung trà bằng hữu; nhưng chân tình của kẻ gần người xa, vẫn luôn tỏa sự nồng nàn, tha thiết. Cái gì thực thì còn mãi với thời gian thăm thẳm, vượt khỏi những cách ngăn của không gian vời vợi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]