Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới thiệu sách mới: Dreams of Tuệ Sỹ (Giấc Mơ Tuệ Sỹ)

10/01/202408:39(Xem: 5042)
Giới thiệu sách mới: Dreams of Tuệ Sỹ (Giấc Mơ Tuệ Sỹ)

Dreams_Thay Tue Sy




Lời giới thiệu cuốn sách "Giấc Mơ Tuệ Sỹ"


Tôi bắt đầu dịch thơ của Thầy Tuệ Sỹ vì khâm phục đức độ và lòng dũng cảm của Thầy. Khi nhận được những góp ý từ những người hâm mộ thơ Thầy là bài dịch của tôi giúp họ hiểu thơ Thầy hơn, thì khi đó tôi mong muốn dịch toàn bộ các bài thơ của Thầy sang tiếng Anh. Cuốn sách này được viết vì cái mong muốn này đã lớn thành cái đam mê.

Có dịch thơ của Thầy, tôi mới thấy rất rõ ràng những bài thơ của Thầy là một cống hiến to lớn không chỉ cho văn hóa Việt Nam mà còn cho Phật giáo thế giới. Thầy đã đem Thiền vào thơ bằng ngôn ngữ của một con suối, một hạt cải hay hai kẻ yêu nhau. Sự trừu tượng hóa này khiến cho rất khó hiểu được thơ Thầy. Nhiều bài, tôi phải suy nghĩ cả ngày, đôi khi cả mấy ngày, mới hiểu ẩn ý của Thầy. Công việc này không đam mê không làm được.

Trong cuốn sách này, tôi xếp các bài thơ của Thầy ra 5 phần:

Phần 1: Ngục Trung Mị Ngữ là tuyển tập chứa đựng 18 bài thơ trong tổng số 50 bài Hòa Thượng Tuệ Sỹ viết trong thời gian Thầy bị tù. Đáng tiếc là không ai tìm được 32 bài thơ đã bị mất. Thầy viết bằng tiếng Hán và phiên âm Hán Việt. Tôi dịch sang tiếng Việt và tiếng Anh.

Tôi chọn dịch 9 bài: Bài số 1, 2, 4 và 13 diễn tả lòng tự tại, vô úy của Thầy, bài số 3 diễn tả tâm từ bi của Thầy, bài số 8 và 9 diễn tả tính khôi hài của Thầy, bài số 10 diễn tả nỗi lo của Thầy, và bài số 16 Thầy kể lại cuộc chiến đấu với chính bản thân 30 năm qua. Cái tâm từ bi, lòng tự tại, vô úy và tính khôi hài (đối đầu với độc ác, vô minh và đê tiện) chỉ có được khi Thầy đã chiến thắng được bản thân.

Phần 2: Những điệp khúc cho dương cầm. Đây là 23 bài thơ ngắn mà Thầy đưa âm nhạc và Thiền vào thơ để tạo thành 23 điệp khúc cho dương cầm.

Phần 3: Tĩnh thất. Đây là 32 bài thơ ngắn được Thầy đặt tên là Tĩnh thất (Phòng Tĩnh tọa). Tất cả những bài thơ này không chỉ chứa đựng ít nhiều Thiền ý trong đó, mà còn phơi bày nỗi lòng của Thầy đối với đất nước.

Phần 4: Thiên lý độc hành. Đây là 13 bài thơ Thầy viết về một chuyến đi vạn dặm của một Thiền sư cô độc, nhưng chuyến đi đó không có khởi đầu và cũng không có kết thúc.

Phần 5: Giấc mơ của Núi. Tất cả các bài thơ còn lại của Thầy đều được để vào đây và được sắp xếp theo thứ tự ABC.

Cuốn sách này được bắt đầu viết trong mùa lễ Tạ ơn năm 2023, để tạ ơn Thầy về những đóng góp vô giá của Thầy cho thế giới này. Thơ chỉ là một phần nhỏ trong di sản của Thầy, vì thế, trong cuốn sách này tôi có trích thêm phần dịch kinh và khảo luận của Thầy. Nếu có gì sai sót, xin quý vị góp ý, để lần in tới sẽ hoàn hảo hơn. Tôi xin cám ơn trước.

Terry Lee



***


Trong phần giới thiệu cuốn sách này cho độc giả nói tiếng Anh, tôi viết:

This bilingual book includes most of the late Venerable Tue Sy's poems, with explanations and English translations by Terry Lee.
Tue Sy was a Buddhist monk who was sentenced to death by the Vietnamese Communist government, then reduced to 20 years under international pressures, due to his non-violent support of his Church. After 14 years 4 months and 20 days, they persuaded him to sign a plea for pardon, but he bravely announced that they had no rights to judge him, therefore, no rights to pardon him. They were obliged to release him after his 10-day total hunger strike.

His poetry does not contain hatred, only compassion, love and Zen concepts. It is interesting to note that he did not use the Zen language in his poems. Instead, he used the language of the lovers, an insect, or a mustard seed, as in the following examples:
1) Carrying a dream in my heart, I wander, wondering,
Where can I find the moon to pick it down for you?
2) The cicadas’ melody bounces back, rippling on cue notes,
The tears of their summer mourning are drying up the ocean.
3) A thousand years ago, I went up those mountains,
A thousand years later, I went down these stairs.
The mustard seed’s eyes are wide opened:
“Where are your footprints?”

He passed away on November 24, 2023. In his will, he left 8 words:

"The world has end; my vows are infinite."
But he did not state what his vows were.
Likewise, more than 2,500 years ago, the Buddha gathered his disciples together for a talk on Dharma. Instead of speaking, however, the Buddha simply held up a lotus flower in front of him without saying a word. Everyone in the assembly was baffled, but one of them, Mahakasyapa, suddenly understood the Buddha’s meaning and smiled. The Buddha said,
“I possess the true Dharma eye, the marvellous mind of Nirvāṇa, the true form of the formless, the subtle Dharma gate that does not rest on words or letters but is a special transmission outside of the scriptures. This I entrust to Mahakasyapa".

I believe Venerable Tue Sy confided his vows in his literature.
In the book Śrīmālādevī Siṃhanāda Sūtra that Venerable Tue Sy translated and explained, he cited Mrs. Śrīmālā's 3 great wishes:

1) May I bring peace to innumerable and unlimited living beings.
2) May I explain the True Dharma, for the sake of all living beings without wearying.
3) May I abandon body, life, and wealth to uphold the True Dharma.
I read from his poetry that these 3 great vows were also his vows, even though he had not accomplished the first vow.
I challenge you to find his vows in his poetry.

***


Bài thơ Luống Cải Chân Đồi.

Vác cuốc xuống chân đồi
Nắng mai hồng đôi môi
Nghiêng vai hờn tuổi trẻ
Máu đỏ rợn bên trời

Sức yếu lòng đất cứng
Sinh nhai tủi nhục nhiều
Thân gầy tay cuốc nặng
Mắt lệ nóng tình yêu

Thầy tóc trắng bơ vơ
Con mắt xanh đợi chờ
Đèn khuya cùng lẻ bóng
Khúc ruột rối đường tơ

Tuổi Thầy trông cánh hạc
Cánh hạc vẫn chốc mồng
Mắt con mờ ráng đỏ
Ráng đỏ lệ lưng tròng

Chân đồi xanh luống cải
Đời ta xanh viễn phương
Sống chết một câu hỏi
Sinh nhai lỡ độ đường.



Giải thích

Bài này Thầy phụ đề là Thầy viết năm 1975, chắc là sau khi Thầy ra Nha Trang cứu trợ đầu năm 1975 rồi Thầy ở đó luôn cho tới năm 1977 mới về Sài gòn. Như vậy thì hoàn cảnh sáng tác bài thơ này rất có thể là tiếng nói nhẹ nhàng cho số phận của đất nước mình sau biến cố 1975. Những người còn ở lại Việt Nam khi đó cũng “thân gầy, tay cuốc nặng” trên vùng kinh tế mới, còn cha, mẹ già của họ cũng “tóc trắng bơ vơ” ở lại thành phố, bám víu ở đó, oái oăm thay, để cứu trợ cho những người bị đày đi kinh tế mới. Hiểu như vậy thì bài thơ này đâu phải Thầy viết để than vãn về hoàn cảnh của Thầy đâu, mà viết cho chúng ta, những người mà tiếng nói đã bị dập tắt sau 1975, bị đuổi lên vùng kinh tế mới, thân phận kiến ruồi, bỏ cha mẹ già ở lại nhà.



Ở phân đoạn 3, tôi đứt ruột với 2 câu thơ của Thầy.

Thầy, tóc trắng bơ vơ
Con, mắt xanh đợi chờ

Tôi dịch, cố gắng giữ sự đối xứng của 2 câu thơ:

My father, white haired, was desolate.
I, exhausted eyes, was awaiting.

Chữ xanh mắt ở đây không phải là mắt màu xanh, vì ở câu dưới, Thầy đã khẳng định là mắt đỏ (mắt con mờ ráng đỏ). Xanh đây là xanh xao, mỏi mệt (pale, tired, exhausted).



Đèn khuya cùng lẻ bóng
Khúc ruột rối đường tơ

có nghĩa là cả 2 chúng ta cùng lẻ bóng (đơn chiếc) và cùng đứt ruột nhớ nhau, tôi dịch là “Our broken hearts were twisted by tangled threads”, vì đau ruột, đau lòng tiếng Anh là broken heart.

Ở phân đoạn 4,

Tuổi Thầy trông cánh hạc
Cánh hạc vẫn chốc mòng



Ông Nguyễn Bá Chung, trong cuốn Dreaming the Mountain, dịch:

My father dreams a crane's wings
The crane is dreaming too

Nghĩa đen là

Cha tôi mơ mộng đôi cánh chim hạc
Chim hạc cũng mơ mộng



Chữ "cánh hạc" dùng để chỉ những người cao niên, vì thế, "tuổi Thầy trông cánh hạc" là tuổi Thầy thấy đã già. Chữ "trông" là trông thấy, không phải trông chờ, mơ mộng (dream). Dịch "cánh hạc" là crane's wings, chẳng khác gì dịch "không sao đâu" là "no star where".



Còn "chốc mòng" là trông đợi đến mắt bị nổi mòng, ý nói trông đợi mỏi mòn (chốc = chốc lở, mòng = mòng mắt). Từ "chốc mòng" đã được cụ Nguyễn Du sử dụng trong truyện Kiều:

Nước non cách mấy buồng thêu
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.

Không biết ông Chung nghĩ sao mà dịch "cánh hạc cũng chốc mòng" là "the crane is dreaming too"?

Để dịch chữ “chốc mòng”, tôi chọn một câu thành ngữ của tiếng Anh, đó là “a sack on the shelf”. Tự điển Cambridge giải thích chữ “on the shelf” là người già, không có ai để ý tới, đối với đàn bà thì đã quá tuổi lập gia đình (not noticed, if someone, usually a woman, is on the shelf, she is not married and is considered too old for anyone to want to marry her).

Thi sĩ người Mỹ da đen Maya Angelou, người được Tổng thống Clinton mời đọc thơ của bà trong ngày lễ nhậm chức của ông đầu năm 1993, trong bài thơ “On Aging” (Tuổi già), viết “like a sack left on the shelf” để chỉ những người già cô đơn, bị bỏ quên, như bao bố bị bỏ quên trên kệ.



When you see me sitting quietly
Like a sack left on the shelf.

Tôi dịch:



Vegetable beds at the foothills

Hoe on my shoulders as I go down the hill,
The morning sun makes my lips red.
My shoulders tilt: How I miss my youth!
The sky appears blood red.

Weak arms against hard soil,
There are embarrassing indicators about my livelihood.
The slim body against the bulky hoe,
My wet eyes are warmed by my love of this place.

My father, white haired, was desolate.
I, exhausted eyes, was awaiting.
We were both lonely in the late evenings.
Our broken hearts were twisted by tangled threads.

Father, in his golden years,
Like a sack left on the shelf.
My eye sockets are bloodshot,
As they are filled with tears.

The foothills are now covered with green vegetable beds.
But my life is further afield.
My livelihood has pushed aside
The question of life and death.



Mộng ngày


Ta cỡi kiến đi tìm tiên động,
Cõi trường sinh đàn bướm dật dờ,
Cóc và nhái lang thang tìm sống,
Trong hang sâu con rắn nằm mơ

Đầu cửa động đàn ong luân vũ,
Chị hoa rừng son phấn lẳng lơ.
Thẹn hương sắc lau già vươn dậy,
Làm tiên ông tóc trắng phất phơ.

Kiến bò quanh nhọc nhằn kiếm sống,
Ta trên lưng món nợ ân tình.
Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc,
Cũng tình chung tơ nắng mong manh.

Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh,
Ngoài hư không có dấu chim bay.
Từ tiếng gọi màu đen đất khổ,
Thắp tâm tư thay ánh mặt trời?

Ta gọi kiến, ngập ngừng mây bạc,
Đường ta đi, non nước bồi hồi.
Bóc quá khứ, thiên thần kinh ngạc,
Cắn vô biên trái mộng vỡ đôi.

Non nước ấy trầm ngâm từ độ,
Lửa rừng khuya yêu xác lá khô.
Ta đi tìm trái tim đã vỡ,
Đói thời gian ta gặm hư vô.



Giải thích

Đọc “ta gọi kiến, ngập ngừng mây bạc”, gọi kiến mà mây bay lại, khiến tôi có cảm tưởng như đang đọc thơ của Phó Đại Sĩ, một thiền sư nổi tiếng của Trung Hoa vào thế kỷ thứ 5. Bài thơ có câu:

人從桥上过
桥流水不流

Nhân tùng kiều thượng quá
Kiều lưu thủy bất lưu.

Người trên cầu qua lại
Cầu trôi, nước chẳng trôi.


Câu thơ “ngoài hư không, có dấu chim bay” của Thầy khiến tôi liên tưởng đến câu chuyện khi hai thầy trò Mã Tổ Đạo Nhất và Bách Trượng Hoài Hải (thế kỷ thứ 8) đi dạo, thấy một đàn chim bay qua, thì Mã Tổ mới hỏi Bách Trượng là đàn chim đâu rồi, thì Bách Trượng trả lời là chúng bay mất rồi. Ngay lập tức, Mã Tổ vặn mũi của Bách Trượng thật mạnh và hỏi “hà tằng phi khứ?” ( 何曽飛去, từ vô thủy đến nay chúng có bao giờ bay mất đâu?), khiến trong cơn đau điếng, Bách Trượng chợt ngộ đạo. Vì thế, tôi dịch câu thơ của Thầy là nơi hư không đó, dấu chim bay luôn luôn có ở đó, chẳng bao giờ biến mất.

Bài thơ 'Mộng Ngày' có 6 phân đoạn.

Trong phân đoạn 1, tôi dùng chữ “where death does not exist” để tả cõi trường sinh, thay vì chữ eternal, vì tôi muốn nhấn mạnh ý của Thầy là nơi đây bất sinh, bất diệt. Mọi hoạt động ở đây đều được diễn tả bằng thì hiện tại (present time), thay vi quá khứ (past time). Toàn bộ câu chuyện trong bài thơ đều được dich ở thì hiện tại, như đang xảy ra, thay vì đã xảy ra. Tiếng Việt không chia thì như tiếng Anh, nên khi dịch qua tiếng Anh ở thì hiện tại, tôi hy vọng đã đoán đúng ý Thầy.

Trong phân đoạn 2, Thầy tiếp tục cho chúng ta thấy sự yên bình bề ngoài ở cõi tiên. Thầy muốn nói dù bất sinh bất diệt, nơi đây tham vọng và ganh tỵ vẫn cỏn. Vì thế, tôi dịch 3 chữ “thẹn hương sắc” của Thầy bằng một câu dài “ashamed of their inferior colors and smell”. Thầy chỉ muốn mượn cõi tiên để diễn tả cõi lòng của Thầy đối với đất nước, nơi tham vọng và ganh tỵ hiện hữu, mà Thầy sẽ viết trong những đoạn sau.

Trong phân đoạn 3, Thầy cho biết Thầy đang mang món nợ trên lưng Thầy. Đó là nợ Tổ quốc, một trong tứ ân của đạo Phật. Câu thơ của Thầy là: “Ta trên lưng món nợ ân tình”, thì rõ ràng là món nợ ân tình Thầy mang trên lưng Thầy, vậy mà không hiểu sao nhiều người dịch là Thầy đeo món nợ đó lên lưng con kiến? Đeo món nợ của mình lên lưng kẻ khác? Tôi chắc chắn Thầy không làm chuyện đó. Ý nghĩa của bài thơ ở đoạn này là Thầy cưỡi trên lưng con kiến, và Thầy đeo trên lưng Thầy món nợ Tổ quốc. Chữ “tổ quốc” được lập đi lập lại ở 2 câu kế tiếp: “Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc” có nghĩa là Thầy cũng lạc loài mất nước, như bầy kiến kia mất tổ. “Cũng tình chung tơ nắng mong manh” có nghĩa là Thầy cũng yêu đất nước của Thầy như bầy kiến kia yêu tổ. Tình yêu này sao lại mong manh như tơ nắng? Đừng thấy tơ nắng mong manh mà coi thường nó. Có ai mà cắt đứt được tơ nắng không? Đây là tơ nắng, chứ không phải tia nắng. Cái khác biệt rất lớn, vì sợi tơ có thể trói buộc được.

Trong phân đoạn 4, trên đường đi tìm cõi tịnh, nơi chim đã bay qua nhưng dấu vết luôn còn đó để ta có thể theo dấu đó mà tìm tới. Đó là cõi giác mà thiền sư Bách Trượng tìm thấy khi sư thấy được dấu chim bay. Với lòng yêu quê hương tha thiết, cõi tịnh của Thầy là nơi quê hương ta đó, ngày nào tâm tư thắp sáng, thay cho ánh mặt trời.

Trong phân đoạn 5, Thầy diễn tả lòng yêu nước của Thầy nồng nàn tới nỗi cảm động cả mây trời và đất nước. Không thể có gì cản trở được đường Thầy đi. Khi Thầy lột trần quá khứ tội ác Cộng sản đối với đất nước, thiên thần cũng phải kinh ngạc. Như đã viết ở trên, không biết là thiên thần kinh ngạc về hành động can đảm của Thầy, hay họ kinh ngạc về sự tàn ác của Cộng sản, hay cả hai.

Trong phân đoạn cuối, tôi hiểu chữ “trầm ngâm” của Thầy là stalemate (đóng băng, bế tắc), và “lửa rừng khuya yêu xác lá khô” là cháy dữ dội. Đó là biến cố 30/4/75. Còn biến cố nào mà cháy dữ dội hơn, tàn phá hơn biến cố 30/4? Trong bài này, Thầy chỉ dùng chữ “trầm ngâm” để diễn tả những ngày sau biến cố đó, nhưng trong bài Bài ca cuối cùng Thầy viết xót xa lòng hơn:

Chàng tuổi trẻ cụt chân từ chiến địa
Vỗ lề đường đoán mộng tương lai
...
Đêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ xoi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời

Bà mẹ móc tim con lấy ngọc để sống? Không phải Thầy tưởng tượng đâu bạn, những chuyện cha mẹ phải bán con để sống không thiếu ở cái xứ ra ngõ gặp anh hùng này. Đau đớn thay cho một dân tộc đã bị lường gạt đến không còn sinh lộ!

Từ ngày đó, vì đất nước đã bị đóng băng, bế tắc, Thầy không ngừng đi tìm lại trái tim Việt Nam đã vỡ nát, dù đói khát cũng không làm Thầy nản chí.

Tôi dịch chữ “hư vô” trong câu chót của bài thơ “đói thời gian ta gặm hư vô” là emptiness, thay vì nothingness. Nothingness phủ nhận sự hiện hữu của tất cả mọi thứ, cả không gian và thời gian, còn emptiness không phủ nhận sự hiện hữu của chúng mà chỉ giữ cho tâm mình được trống vắng tuyệt đối, không bị lay động bởi ngoại cảnh. Giấc mơ có thực, không phải là nothing. Giấc mơ, dù về mặt vật chất thì chúng trống rỗng (empty), nhưng chúng là những hình ảnh sống động. Chắc chắn nhiều người đã nhiều lần la hét và đổ mồ hôi trong mơ.

Cuối cùng, tôi dịch tựa bài thơ là Daydream, thay vì Day Dream, vì dream xảy ra khi ta ngủ, còn daydream xảy ra khi ta thức.

Daydream

On the back of an ant, searching for a sanctuary,
Where death does not exist, I find a herd of butterflies fluttering,
And some toads and frogs wandering around, looking for food,
While deep in its cave, a snake is daydreaming.

At the entrance, dancing round the forest flowers are a swarm of bees,
Proudly showing off their beautiful colors and attractive perfume.
Ashamed of their inferior colors and smell, the reeds’ flowers stand up,
Looking like old angels’ white hair, wavering in the wind.

Here are some ants running around, searching for their homelands.
With a heavy debt of love that I carry on my back,
I also find myself homeless, sharing the same fate with the ants,
And the love for our homelands, which is as fragile as sunlight threads.

I ask my ant where the tranquil world beyond the void is,
Where traces of bird flights can always be seen,
And from the darkness of our suffering Earth,
Rises the light of hope, in lieu of sunlight?

I call the ants, but the silver clouds loosely arrive instead,
And my homeland trembles following my path.
The angels look surprised when I stripped off my country’s past,
And her dream fruit broke in half when I bit the limitless.
My country has been in stalemate,
Since the day her forests were furiously burnt down.
In search of her broken heart,
I’ll bite the emptiness when I’m hungry for time.






🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️


Cảm ơn Giáo Sư Toán học Terry Lee đã viếng thăm Tu Viện Quảng Đức và gởi tặng tập sách giá trị này mà anh đã dày công dịch thuật và chú giải những áng thơ trác tuyệt "Giấc Mơ" của Ôn Tuệ Sỹ. Phải nói rằng đây là một công trình tim óc mà anh Terry đã cống hiến cho quý đọc giả gần xa yêu thích thơ của Ôn Tuệ Sỹ. Ngôn ngữ trong thơ của Ôn dùng luôn là áo nghĩa, ẩn ngữ và quá điêu luyện, khiến người đọc khó hiểu, nay nhờ bản dịch tiếng Anh và những lời giải thích của anh, đọc giả mới vỡ òa.... Càng đọc thơ tập này của Ôn, người đọc càng thấu rõ hơn về những ước mơ, hoài bảo và chí nguyện của Ôn dành cho xứ sở và nền Phật Giáo Việt Nam trong thời hiện đại.


Kính mời quý độc giả order sách quý này ở Amazon link:

https://www.amazon.com.au/s?k=Dreams+of+Tu%E1%BB%87+S%E1%BB%B9&crid=2QKQNI5IP5ZL1&sprefix=dreams+of+tu%E1%BB%87+s%E1%BB%B9%2Caps%2C211&ref=nb_sb_noss_1

giac mo tue sy-2
🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

terry lee
***


Kính mời vào xem:
Lễ Tưởng Niệm Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ

tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu


hoa thuong tue sy (91)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 11847)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16140)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11108)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7434)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19900)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4358)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4099)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3560)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13110)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 3042)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]