Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những dấu ấn Pali trong tiếng Việt

07/01/202405:42(Xem: 1713)
Những dấu ấn Pali trong tiếng Việt


pali

NHỮNG DẤU ẤN PÀLI TRONG TIẾNG VIỆT

 

Nưóc Việt trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, ban đầu chỉ là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, dần dần tiến về Nam sáp nhập nhiều phần lãnh thổ khác để có được diện mạo như hôm nay. Quá trình phát triển ấy cũng nhiều thăng trầm nghiệt ngã, có lúc tưởng như diệt vong  nhưng rồi laị phục hồi  và phát triển trở laị. Nước Việt chịu nhiều ảnh hưởng của các nền văn hoá: Trung Hoa, Ấn, Champa, Khme, Pháp, Mỹ…Ngay từ thuở ban đầu chỉ là thời đaị bộ lạc, bộ tộc. Tộc Việt cũng đã có một nền văn hoá riêng, tiếng nói riêng:

                          Sống nghề làm ruộng đi săn

                      Xăm mình thờ cúng nhuộm răng ăn trầu

 Hai câu ca dao vô danh đã khắc họa rõ cái bản sắc riêng của mình. Khi nhà Hán xâm lăng và đô hộ thì họ áp đặt cái văn hoá, ngôn ngữ của họ lên người Việt cổ. Những thái thú và các nhà cai trị người Hán tiêu biểu như: Nhâm Diêm, Tích Quang, Sĩ Nhiếp(*)…Chữ Hán bắt đầu được dùng và dần dần trở thành ngôn ngữ chính thức của người Việt. Mở đầu cho chữ Hán và nền Hán học thống trị hàng ngàn năm. Các triều đaị phong kiến Việt Nam cho dù có đánh thắng được giặc Tàu về mặt quân sự nhưng vẫn cúc cung quy thuận về mặt tư tưởng, văn hoá, ngôn ngữ… Coi chữ Hán là mẫu mực, thánh hiền…Đến thể kỷ mười ba thì Hàn Thuyên đã mạnh dạn dùng chữ Nôm để sáng tác. Chữ Nôm là biến thể vay mượn từ chữ hán. Người Việt bình dân sử dụng hàng ngày nhưng triều đình và nho sĩ thì chê: ”Nôm na mách qué” nên không sử dụng. Đến thời Quang Trung thì chữ Nôm được trọng dụng. Quang Trung và triều đình kích thích tinh thần yêu nước, lòng tự tôn của dân tộc. Chữ Nôm dùng như ngôn ngữ chính thức song song với chữ Hán. Thế kỷ mười sáu, khi các giáo sĩ phương Tây đến nước ta truyền giáo. Họ nhận thấy chữ Nôm hay chữ Hán đều khá rắc rối nên mới dùng ký tự Latinh chế ra một loaị chữ mới. Công đầu phải kể đến Alexandre  de Rhodes ( phiên âm: Đắc Lộ). Trước ông cũng có nhiều vị thừa sai đã dùng mẫu tự Latinh để phiên âm chữ Hán ra một loại ngôn ngữ mới mà ngày nay ta gọi là chữ quốc ngữ, đó là những vị thừa sai: Francois Pina  (giảng đạo bằng tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt rành rẽ), Fraces Buzomi (người Ý), Diogo Carvalho, Antonio Diaz (người Bồ Đào Nha)... Giáo sĩ Đắc Lộ là người đã có công hệ thống hoá và hoàn chỉnh một loại chữ mới cho ngườiViệt. Ông đã viết cuốn: ”Tự điển Việt- Bồ – La”. Có một điều khiến nhiều người thắc mắc là ai đã dạy tiếng Việt cho các vị giáo sĩ phương tây? Thật sự có nhiều người Việt rất giỏi đã cộng tác với các giáo sĩ, học học ngôn ngữ của các giáo sĩ, dạy lại tiếng Việt cho các giáo sĩ, giúp các giáo sĩ truyền giáo, ta có thể kể hai trường hợp tiêu biểu nhất được ghi nhận đó là: linh mục Hồ Văn Nghị và Phan Văn Minh. Việc hình thành chữ quốc ngữ là công đầu của các giáo sĩ phương tây nhưng chưa đủ, trong đó không ít công lao của nhiều người Việt khác, đáng tiếc là sử gia và sử sách phương tây không chịu ghi nhận tên người Việt, (điều này y hệt những sử gia và sử sách Trung Hoa không bao giờ ghi nhận tên người Việt cho những đóng góp hay thành tựu của họ).

Tiếng Việt dần dần hình thành và phát triển. Huỳnh Tịnh Của cũng là người có công lớn trong việc hoàn chỉnh tiếng Việt. Ông đã biên soạn pho: ”Đaị Nam Quấc Âm Tự Vị”, sau ông có Trương Vĩnh Ký người đầu tiên phát hành báo tiếng Việt: “Gia Định Báo”. Tờ báo này ra đời năm 1867, đây là tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên của người Việt và cũng là mốc khởi thủy của báo chí Việt ( hiện nay chính quyền Việt Nam họ chỉ lấy cái mốc báo chí 1945, nghĩa là cắt bỏ cả trăm năm lịch sử)... Đều là những nhà ngôn ngữ tài ba đã làm cho tiếng Việt phát triển và hoàn thiện. Tính đến nay thì tiếng Vịêt cũng gần bốn trăm năm (Kể từ khi các vị thừa sai dùng mẫu tự Latin để phiên âm). Tuy nhiên trong tiếng Việt ta, từ Hán Việt vẫn chiếm một lượng lớn, phải nói là đa số, đó là hệ lụy của việc lệ thuộc quá lâu vào chữ Hán và văn hoá Hán. Có một điều hầu như không mấy người biết là trong tiếng Việt còn có một số lớn từ ngữ vốn thoát thai từ tiếng Pàli. Trong quá trình truyền bá Phật Giáo: Giáo lý, kinh điển, luật, luận từ dòng Nam truyền vào nước ta đã vô tình mang laị nhiều sắc thái mới cho văn hoá và ngôn ngữ. Nhiều tữ ngữ từ tiếng Pàli laị trở thành tiếng Việt như một từ thuần Việt. Nếu không có sự đối chiếu, so sánh của các tăng sĩ và các học giả dịch kinh Nam truyền thì chúng ta không thể nào biết được. Ông Jean-neau – G (người Pháp) đã dịch tác phẩm “Lục Vân Tiên” từ chữ Nôm sang chữ Việt đã viết khảo luận chứng minh tiếng Việt có nguồn gốc từ Aryen mà ngôn ngữ Aryen laị có nguồn gốc từ tiếng Pàli.

 

 Ngôn ngữ Pàli dùng ghi chép kinh Phật, nhất là ba tạng kinh, luật, luận Nikàya. Ấy vậy tiếng Việt đã vay mượn, sử dụng từ ngữ pàli một cách tài tình. Nhờ nghiên cứu của thầy Chúc Phú công bố đã mang lại kết quả thật bất ngờ! Điều này chứng tỏ sự ảnh hưởng khá lớn của Phật Giáo Nam truyền cũng như văn minh, văn hoá của Ấn Độ và các nước thuộc dòng Nam truyền (Champa, Khme, Thailand, Sri lanca, Burma…) đối với ngôn ngữ Việt. Việc sử dụng (tụng, đọc, nghiên cứu...) kinh điển bằng ngôn ngữ Pàli đã để lại nhiều dấu ấn trong tiếng Việt. Sau này Phật giáo Bắc truyền lấn lướt và chiếm thế thượng phong đẩy lùi những ảnh hưởng của Phật giáo Nam truyền. Ấy cũng là lý do mà đaị đa số người Việt chúng ta chỉ thấy sự ảnh hưởng của chữ Hán lên chữ Việt ( từ Hán Việt) mà không biết đến sự ảnh hưởng của tiếng Pàli lên chữ Việt, tiếng Việt!

  Thực sự Phật giáo được truyền đến Việt Nam trước khi truyền sang Tàu. Chính sử  Trung Hoa chính thức ghi nhận Phật giáo được truyền đến Trung Hoa vào năm Vĩnh Bình (Nhà  Hán, niên hiệu Vĩnh Bình từ năm 58 -75 AD). Trong khi đó phật giáo đã đến nước Việt trước đó từ lâu, ít nhất là cả trăm năm trước. Vương Diễm nhà Nam Tề (497) đến Giao Chỉ thọ pháp với pháp sư Hiền. Ngài Phật Đà Bạt Đà La đến Giao Chỉ truyền đạo sau đó mới sang Tàu. Thiền sư Khương Tăng Hội người Giao Châu sang Tàu truyền đạo. Thiền sư Khương Tăng Hội có thể được coi như sơ tổ sư thiền tông của người Việt, chính ngài đã diện kiến Tôn Quyền của nước Ngô tại kinh đô Kiến Nghiệp (giai đọan tam quốc phân tranh bên Tàu: Ngụy - Thục – Ngô), điều đáng tiếc là cơ duyên chưa chín mùi nên Tôn Quyền bỏ lơ không chú ý đến Phật giáo, một tôn giáo mới manh nha ở Tàu. Sự kiện thiền sư Khương Tăng Hội hội kiến Tôn Quyền xảy ra trong khoảng thời gian (222 – 229), Phật giáo sử có ghi nhận nhưng chính sử Tàu và Tam Quốc Chí của Trần Thọ lẫn Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung đều không ghi chép chi tiết này. Việc không ghi chép sự kiện này cũng dễ hiểu, điều đầu tiên là vì đây không phải là sự kiện lớn, thứ hai là thời đại bấy giờ và các sử gia đều sùng đạo Nho, thứ ba là thiền sư Khương Tăng Hội là người Giao châu (mẹ người giao châu cha người Khương) chứ không phải người Hán …Trung tâm Phật giáo Luy Lâu (nay là Thuận Thành - Bắc Ninh) của Giao châu rất danh tiếng trước khi Phật Giáo Bắc truyền chiếm thế thượng phong. Từ khi nhà Hán xâm lược và đô hộ thì văn hoá Hán, chữ Hán và phật giáo Bắc truyền trở thành chủ yếu! Ngàn năm đô hộ và đồng hoá, nhiều lần huỷ diệt văn hoá Việt ( thời nhà Minh) nhưng người Việt vẫn bền bỉ sống còn, văn hoá Việt, tiếng Việt vẫn tồn tại. Chính nhờ nền văn hoá với một bản sắc riêng mà dân tộc còn đến hôm nay!

Sau đây là bảng đối chiếu một số từ ngữ Việt và Pàli tương đồng về nghĩa, giống nhau về phát âm. Những từ ngữ này tôi trích (vay mượn) từ bản nghiên cứu của thầy Thích Chúc Phú để làm dẫn chứng.

 

 

Tiếng Việt

Pàli

Nghĩa của từ

Bá láp

Palapa

chuyện tầm phào, vu vơ

Bát

Patta

vật đựng thức ăn

Bồ

Bho

bạn thân, người yêu

Bụt

Bujjhati

bậc giác ngộ, tỉnh thức

Cạp

Cappeti

dộng từ chỉ việc ăn

Chái

Chada

mái hiên

Đĩ

Dhi

việc dâm, xấu hổ

Đanh đá

Danddha

tánh gây gỗ, khó khăn

Đù

Du

tiếng lóng, chửi thề

Ma

Ma

nguoi chết, phi nhân

Nạt

Nadati

to tiếng, la, quát tháo

Nỏ

No

không (phương ngữ)

Phèn

Phena

sắt lắng đọng

Rực

Ruci

tỏa, sáng...

Say

Sayana

không còn tỉnh táo

Thù lù

thula

to, thô...

Vác

Vaha

mang, vác... (động từ)

Vạc

vapati

Cắt, gọt... (động từ)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(*) Theo những nghiên cứu mới nhất của giáo sư – tiến sĩ Lê Mạnh Thát thì giai đoạn nghìn năm Bắc thuộc là không thật. Giáo sư đã biên soạn bộ sách lớn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”, trong đó đã đưa ra nhiều bằng chứng cụ thể, nhiều lập luận logic để chứng minh nhiều nghi án trong lịch sử Viện Nam.

 

Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 1223 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/06/2013(Xem: 3498)
Không biết tôi đã đọc Bông hồng Cài áo của thày Nhất Hạnh bao nhiêu lần. Từ những ngày còn thơ ấu sống trong vòng tay mẹ, cho đến ngày hôm nay, khi nấm mồ của mẹ đã xanh ươm cỏ, bài viết luôn làm tâm hồn tôi chùng xuống trong những yêu thương dịu dàng nhất.
22/06/2013(Xem: 3587)
Trong cuộc đời đã bao lần bực dọc, hờn giận vì những việc thật nhỏ nhoi mà hư đi những chuyện quan trọng, làm mất lòng bạn bè, người thân, mà tâm cũng chẳng vui. Cuộc sống ngắn quá nên một lần nghe cô bạn kể chuyện này, ngẫm nghĩ và ngồi viết lại để mong lúc nào mình cũng sẽ làm được như thế. Bỏ hết những âu lo cho nhẹ nhõm trong lòng. (Thiên Hương).
22/06/2013(Xem: 6351)
Vậy là đã một năm, thời gian trôi quá nhanh nhưng lại thật không nhẹ nhàng khi những buồn thương vẫn còn hằn in trên dấu đá. Giờ này chắc chị đã bắt đầu một cuộc đời nào khác tại một nơi chốn bình yên vĩnh cửu, và tiếng cười của chị, những thương yêu của chị vẫn mênh mang trong một cõi thiên thu nào đó. Trong lúc ở đây, tại thế giới này, chúng em vẫn còn tưởng nhớ, vẫn cảm nhận những yêu thương vời vợi mà chị đã để lại trong đời sống ngắn ngủi của chị, và vẫn nghe trong tâm mình những khắc khoải đớn đau ...
22/06/2013(Xem: 3745)
Buổi sáng, trời hơi se lạnh và ẩm ướt âm u, hồi đêm hình như rất gió và ầm ì những tiếng sấm gợi lại những lo sợ xa xôi của thời còn chinh chiến. Nhìn ra khung cửa, đồi cỏ vẫn trải dài thoai thoải, những khu vườn xung quanh đã rực rỡ những đóa hoa xuân. Tiếng chim hót lảnh lót đầu hiên hòa nhịp dáng dấp nhí nhảnh của những chú chim sà mình xuống hàng rào rồi lại nhẹ cất cánh lên cao. Hồn nhẹ tâng theo những đám mây trời, tạ ơn đời sống, tạ ơn sự bình yên, tạ ơn những mượt mà của tạo hóa.
22/06/2013(Xem: 3151)
Tôi đã đi trên con đường này không biết đã bao nhiêu buổi sáng. Có buổi thành phố còn đang ngái ngủ, chỉ có những chiếc xe rửa đường rì rào lăn bánh, có buổi những toà cao ốc còn tắm đẫm sương đêm làm hai hàng mi long lanh những hạt nước trong suốt của hơi lạnh mùa đông. Và có những buổi như sáng nay, đường phố ngập những chiếc lá vàng và những hàng cây hai bên đường xôn xao đổ lá. Tự dưng, tôi nghe hồn mình chùng xuống vì một thoáng nhớ xa xôi.
21/06/2013(Xem: 2906)
Tháng 12, khi tui còn đi chơi lòng vòng. Sở làm dọn sang địa điểm mới. Ngày bắt đầu đi làm nơi mới cũng hơi bỡ ngỡ. Được cái chỗ làm mới ngay trung tâm thành phố. Đi một chuyến xe lửa 12 phút đã tới, mỗi ngày tiết kiệm được 50 phút cho 2 chuyến xe trams từ City xuống nơi làm cũ và trở về. 50 phút nhiều lắm chớ bộ. Nhưng...
28/05/2013(Xem: 3541)
Ai thật sự đã làm đời bạn khác đi? Hãy thử trả lời đôi điều dưới đây: - Hãy kể tên năm người giàu nhất trên thế giới. Hãy kể tên vài người đoạt vương miện hoa hậu hoàn vũ mấy năm gần đây nhất. Hãy kể tên 10 người đã đoạt giải Nobel hoặc giả Pulitzer
28/05/2013(Xem: 3343)
Cứ mỗi tháng tư, tôi lại rơi vào một nỗi băn khoăn cố hữu, đó là không biết mùa xuân mới liệu có thể như mùa xuân rồi hay không. Cảnh vật trông như hoang phế, từ bầu trời, những ngọn đồi đến các cánh rừng tuyền một màu xám, giống như nước sơn lót trên vải của những bức tranh nghệ thuật khi chưa thành kiệt tác.
28/05/2013(Xem: 3507)
Một ngày nọ, hai cậu bé đang chơi đùa thì một bà tiên xuất hiện trước mặt và nói: “Ta tặng cho các cháu món quà năm mới” Bà trao cho mỗi đứa một gói quà và biến mất. Carl và Philip mở những gói quà ra và thấy trong đó là những quyển sách xinh đẹp, những trang giấy trắng tinh như tuyết khi lật trang đầu tiên.
14/05/2013(Xem: 3077)
Sống đời hay hành đạo chung qui chỉ là hành trình tìm thấy những cái duyên để mình vui hơn hay buồn hơn, tốt hơn hoặc xấu hơn, lên cao hơn hoặc xuống thấp hơn, và rốt ráo nhất, là nhận diện được cái duyên nào để mình ra khỏi hay trở lui cái vòng lẩn quẩn của cuộc trầm luân. Hắn hồi quận. Như chiếc lá về cội, như giọt nước về sông, như mưa về đất. Đơn giản thế thôi, không gì hơn nữa. Và ba lần bảy ngày làm nên con số hăm mốt nhỏ xíu như giấc chiêm bao trong một giấc ngủ ngày, nóng bức mệt mỏi. Nhỏ, nhanh, ngắn, mà cái gì cũng có đủ. Như một cuốn phim ngắn hoàn chỉnh nhất. Tái ngộ, sơ ngộ và trong đó dĩ nhiên còn là những hạnh ngộ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]