Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giấc Mo Trường Sơn của Tuệ Sỹ - Món Quà Văn Học Đặc Sắc Của Việt Nam Dành Cho Phương Tây

13/07/202307:12(Xem: 5600)
Giấc Mo Trường Sơn của Tuệ Sỹ - Món Quà Văn Học Đặc Sắc Của Việt Nam Dành Cho Phương Tây



giac mo truong son-tue sy

GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN của Tuệ Sỹ
Món Quà Văn Học Đặc Sắc
Của Việt Nam Dành Cho Phương Tây

 

 Chúng tôi thật vinh dự khi được Giáo sư Nguyễn Bá Chung đề nghị giới thiệu tác phẩm đặc biệt này của một trong những bậc Thầy Phật Giáo được kính ngưỡng nhất hiện nay. Tác phẩm có tựa “DREAMING THE MOUNTAIN – GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN” của Tuệ Sỹ, người mà tôi có đại nhân duyên được gặp gỡ, học hỏi, và hân hạnh được Thầy hướng dẫn nhiều Phật sự. Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một nhà thơ tiếng tăm, một giáo sư lỗi lạc, một ẩn sĩ, một học giả đáng kính, một nhà “bất đồng chính kiến” với lãnh đạo của nhà nước hiện nay. Hòa Thượng cũng là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học và văn hóa Việt Nam hiện đại. Những bài thơ của Thầy được tuyển chọn và biên soạn chu đáo để đăng trong tác phẩm song ngữ “DREAMING THE MOUNTAIN – GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN”, đã được nhà thơ danh tiếng người Mỹ, Martha Collins và giáo sư Nguyễn Bá Chung chuyển ngữ, đồng thời Nhà xuất bản Seedbank phát hành lần đầu tiên tại Bắc Mỹ, vào tháng 6 năm 2023. Tôi rất hoan nghênh và cảm ơn những nỗ lực của giáo sư Nguyễn Bá Chung, nhà thơ Martha Collins cũng như nhà xuất bản Seedbank (Milkweed Editions) trong việc biên soạn và ấn bản tác phẩm này một cách rộng rãi và trang trọng. Đây là một tác phẩm giá trị đối với nhiều thế hệ muốn tiếp cận về văn học Việt Nam.

Trong phần giới thiệu của cuốn sách, tiểu sử tóm tắt của Thầy như sau:

“Tuệ Sỹ, sinh năm 1943, vào thiền môn lúc mười tuổi và sau này trở thành một học giả Phật giáo lỗi lạc, một giáo sư, một thi sĩ, một dịch giả. Giáo sư Phạm Công Thiện đã gọi Thầy là ‘một thiền sư lỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, trong sạch nhất tại Việt Nam hiện nay.’ Ông đã kiên quyết chống lại ý kiến cho rằng Phật giáo có thể dùng làm công cụ cho bất kỳ ý thức hệ nào, và ông nổi tiếng ở Hoa Kỳ và những nơi khác về sự bất đồng chính kiến của mình, cũng như ở Việt Nam, nơi ông đang sống. Hai lần vào tù, một lần hai năm, lần nữa mười bốn năm, có lúc bị kết án tử hình. Nếu coi đây là một tiểu sử khác thường, thì thơ Tuệ Sỹ, phần nhiều viết trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá, cũng không kém phần khác thường.”

Tác phẩm được chia thành nhiều mục, dựa trên các khung thời gian. Ở đây tôi xin được giới thiệu hai bài thơ điển hình mà tôi rất yêu thích:

1. Cánh Đồng Mộng Xa: Trước 1975

Khung Trời Cũ - Một Mảnh Trời Xưa (tr. 2, 3)

Hận Thu Cao - Noble Autumn Rancor (tr. 14, 15)

2. Mộng Trường Sơn: 1975–1977

Một Bóng Trăng Gầy - A Slender Moon (pg. 24, 25)

Tống Biệt Hành - Nghỉ Phép (tr. 50, 51)

3. Mộng Trường Sơn: 1978–1984

Tôi Vẫn Chờ - I Still Wait (trang 54, 55)

Nằm Giữa Bãi Tha Ma - Ngồi Trong Nghĩa Địa (tr. 62, 63)

4. Những Bài Thơ Sau

Tịnh Thất - Thiền Phòng (tr. 90, 91)

Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm - Refrains For Piano (pg. 110, 111)

Thật vô cùng ngoạn mục nếu chúng ta đặt mình trong bối cảnh cuộc sống của chính tác giả rồi lắng lòng đọc những bài thơ này.

Thơ của Thầy soi sáng cuộc sống của chính mình, bao gồm cả sự đấu tranh, ước mơ và ước nguyện với quê hương Việt Nam.

Thầy có một kiến thức vô song về Phật Pháp, một trí tuệ rộng lớn và lòng từ bi vô bờ bến. Những công trình sáng tác và dịch thuật của thầy xác định thế đứng vững vàng của Tuệ Sỹ trong dòng văn học Việt Nam. Thế đứng này lại được xác định đậm nét hơn khi tuyển tập được dịch qua tiếng Anh lần đầu tiên để giới thiệu độc giả Phương Tây.

Tuyển tập được Rachel Adams mô tả trên Tricycle Review “là giàu sức hút, trữ tình và phức tạp một cách thâm trầm” mang đến một cái nhìn thoáng qua về tâm hồn và về “tác phẩm của một nhân cách phi thường” cho các độc giả Anh ngữ.

Tác phẩm này giới thiệu khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của học giả, nhà thơ, dịch giả Phật giáo Việt Nam, Tuệ Sỹ, qua phương tiện thi ca. Cuộc đời từ lúc xuất gia thông qua các công trình nghiên cứu, giảng dạy về Phật giáo của Thầy đều có ảnh hưởng đáng kể đến thi ca của Thầy, thường phản ánh thế giới tự nhiên, truyền cảm hứng cho hy vọng và có ý nghĩa Thiền sâu sắc. Chiến tranh Việt Nam, thời gian Tuệ Sỹ ở trong tù và các trung tâm “cải tạo”, cuối cùng được trả tự do và những năm sau này của Thầy đều được mô tả một cách chi tiết. Những bài thơ được thảo luận cho thấy Tuệ Sỹ có lòng trắc ẩn, từ bi, sự kiên trì và cống hiến cho các hoạt động tinh thần và nghệ thuật. Tuyển tập này nêu lên tầm quan trọng của thơ Tuệ Sỹ trong việc phản ánh lịch sử Việt Nam và ý nghĩa truyền thống tâm linh trong thời kỳ giao thời.

Trong thơ Tuệ Sỹ, từ các yếu tố thiên nhiên như gió, nắng, rêu, mây, thác nước… đến mắt biếc, vẻ đẹp, quán trọ, chùa chiền, trần gian… đều đóng vai trò tượng trưng, nhân cách hoá, là ý nghĩa sâu xa xuyên suốt các bài thơ. Các danh lam thắng cảnh cụ thể mà tác giả đã viết được làm nổi bật, đặc biệt là ở Vạn Giã, Nha Trang, Việt Nam, cũng như dãy Trường Sơn như một biểu tượng. Trong tác phẩm của mình, Tuệ Sỹ khám phá chủ đề giấc mơ, bao gồm các khái niệm tưởng tượng, khát vọng, tuyệt vọng, ảo ảnh, cũng như suy tư của Thầy về vòng sinh tử luân hồi và khát vọng giải thoát. Khả năng điều hướng giữa thực tại vật chất và thời gian, giữa có và không, giữa còn và mất, giữa khổ đau và hạnh phúc, giữa phiền não và bồ-đề của nhà thơ được ca ngợi. Cuốn sách cũng bàn về sự khảo nghiệm của Tuệ Sỹ về khổ đau, tình người và con đường thoát tục niết bàn.

Có lẽ “Giấc Mơ Trường Sơn” là bức chân dung cảm động về một tâm hồn đang tìm kiếm tự do và trí tuệ rộng lớn trong một thế giới hỗn loạn. Nó làm nổi bật chất thơ của Tuệ Sỹ về những quan sát sâu sắc, về sự cống hiến cho sự giải thoát và sự tương tác giữa thực tại tối hậu và trần tục. Tuyển tập đã được mô tả là gợi cảm, “trữ tình và phức tạp một cách thâm trầm”, mang đến một cái nhìn thoáng qua về tâm trí, trái tim và ý tưởng phi thường của nhà thơ.

Tôi hân hạnh giới thiệu tác phẩm “Giấc Mơ Trường Sơn” vì chính nó là sự thể hiện của một tâm trí lớn, một tâm hồn bao la. Tâm trí ấy, tâm hồn ấy, đang tìm kiếm sự an nhiên và tự do trong một thế giới hỗn loạn, không ngừng thay đổi.

Cuối cùng, tôi xin chúc mừng các dịch giả và nhà xuất bản. Xin mời tất cả quý vị cùng thưởng thức tập thơ này. Hãy để những từ ngữ thấm sâu vào tâm thức và trái tim rộng mở của bạn. Hãy đọc nó thật chậm rãi. Hãy nhẹ nhàng và vui thú với nó. Chỉ cần tận hưởng là đủ. Cầu mong tất cả chúng ta được bình an, khỏe mạnh và hạnh phúc.

Bạch X. Phẻ

Tác giả của hai cuốn sách:

AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life: A Vision of Poems for West and East

Mindful Leadership: Learning Through the Practices of Mindfulness and Compassion


Tâm Thường Định lược dịch từ bài viết bằng tiếng Anh. DREAMING THE MOUNTAIN of Tuệ Sỹ – A Special Literature Gift from Vietnam to the West 

 

Chú ý: Xem thông tin ở trang Amazon.com và mua sách tại đây. 

https://www.amazon.com/Dreaming-Mountain-Poems-Tu%E1%BB%87-Seedbank/dp/1639550186/ref=sr_1_1

 

The North American debut of Tuệ Sỹ—poet, monk, scholar, dissident, and one of the great cultural figures of modern Vietnam—and a new bilingual edition to the Seedbank series.

 

In addition to being a preeminent scholar of world philosophy and a Zen master, TuệSỹ is one of Vietnam’s most celebrated poets. He is a survivor of sixteen years of imprisonment and an eloquent witness to the tumult, tragedy, and resilience of his country over the last sixty years—and a full-length translation of his work into English is long overdue.

 

Assembled and co-translated by Vietnamese poet and essayist Nguyen Ba Chung and acclaimed American poet Martha Collins, Dreaming the Mountain reflects a lifetime of creation, crisis, and commitment. With poems presented on facing pages in Vietnamese and English, this volume includes the early imagism of Tuệ Sỹ’s Zen studies as a scholar and critic, midlife work that represents his attempted retreat from the devastation of war and subsequent years of imprisonment, and late, elliptical poems that give intensely lyrical expression to a lifetime of profound experience. From the “fleeting dream of red blood at dusk” to the quiet determination of one who sets out to “repaint the dawn,” these poems reflect the journey of an artist who speaks for his country, who captures its darkness and its light.

 

At once personal and universal, coolly observant and deeply compassionate, the poems of Tuệ Sỹ bring singular attention to a fleeting, painfully beautiful world.

 

Product details

Publisher ‏ : ‎ Milkweed Editions; Bilingual edition (June 13, 2023)

Language ‏ : ‎ English

Paperback ‏ : ‎ 168 pages

ISBN-10 ‏ : ‎ 1639550186

ISBN-13 ‏ : ‎ 978-1639550180

Item Weight ‏ : ‎ 7.2 ounces

Dimensions ‏ : ‎ 5.5 x 0.75 x 8.5 inches

UNSPSC-Code : 55101500 (Printed publications) Report an incorrect code

Best Sellers Rank: #132,689 in Books (See Top 100 in Books)

#8 in Asian Literary History & Criticism

#21 in Asian Poetry (Books)

#40 in Poetry About Places (Books)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/01/2015(Xem: 3321)
Hai mươi năm xa quê, cuối cùng tôi cũng đã về thăm lại Huế! Hai từ "về Huế" mới ấm áp làm sao. Huế của tôi không về sao được. Nào là làng xóm bà con, mồ mã nội ngoại nhất là bạn bè, học trò rất thân thương mà tôi cho đó là một phần lẽ sống của mình. Các em đã tổ chức cho tôi một buổi họp mặt, môt khu vườn xinh xắn, cây lá được điểm trang bằng đèn màu ra vẻ một tiệm cà phê trang nhã như tính cách của chủ nhân. Bày biện ngoài sân và vườn là một dãy bàn ghế cũng tương đối lịch sự, đủ chỗ tiếp mấy chục người, thân mật và ấm cúng.
01/01/2015(Xem: 4041)
Người ta thường nói đời nhà giáo " Cho rất nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu. " Tôi thì trái lại, tôi cho rằng: " Nhà giáo chúng tôi cho chẳng bao nhiêu mà nhận rất nhiều. " Gần suốt cả cuộc đời, tôi có cho ai bao nhiêu đâu vậy mà đi đến nơi nào, tôi cũng đã được rất nhiều học trò lúc nào cũng dang rộng vòng tay nồng ấm tiếp đón cô giáo cũ của mình.
03/12/2014(Xem: 3964)
Đêm đã khuya, sao tôi còn thao thức mãi! Cứ mỗi lần nhận được thư của những người bạn còn ở lại bên trời quê hương lận-đận là tôi nao cả lòng! Tất cả những thông tin về Huế làm cho tôi xúc động bâng khuâng! Tôi chỉ còn nửa mảnh đời ở đây, còn nửa mảnh đời vẫn gởi lại cho Huế. Buổi chiều với mảnh trời tím cũng gợi nhớ, buổi sáng với nắng cũng xôn xao, cũng không khuây khỏa nỗi rờn rợn Huế trong tim!
25/11/2014(Xem: 4595)
Có một “truyện cổ Khờ-me”, như sau:“- Ngày xửa, ngày xưa có ông vua, một đấng minh quân, cùng với mấy vị quan trọng thần rong thuyền ngoạn du sông nước. Trời nắng như đổ lửa, dòng nước ngược chảy xiết nên những người phu chèo đầm đìa mồ hôi, mặt mũi đỏ au, ráng tận sức lực để chèo đẩy con thuyền đi.
25/11/2014(Xem: 4629)
Tôi không nhớ đã đọc ở đâu câu nói này: Nếu không có gì quý giá để lại cho đời, thì ít nhất cũng đừng để lại một điều gì tệ hại. Khoảng trống đó cũng có thể gọi là một thứ di sản không tệ. Tôi nhớ đến câu nói đó, chỉ vì chiều nay đọc thấy trên Internet một tin nhỏ mà thú vị: Các nhà khoa học Anh quốc vừa phát minh một kiểu lò hỏa táng, được đặt tên Resomator, không khói, không tạo ra bất cứ khí độc nào có hại cho môi trường thiên nhiên và sức khỏe con người.
23/11/2014(Xem: 10000)
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi. Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. ( Chinh Phụ Ngâm Khúc) Trong cuộc sống có những ân tình, nhưng vì hoàn cảnh, hay vì lý do nào đó không trả được, tôi ghi mãi trong lòng, ấp ủ sâu thẳm tận trái tim như báu vật để rồi một lúc nào đó chợt nhớ lại, trân trọng với lòng tri ân vô bờ bến.
22/11/2014(Xem: 4877)
Mùa thu dường như chưa qua mà gió đông đã về tới. Mặt trời mọc sớm nhưng ánh nắng vẫn không xuyên qua nổi những tầng mây xám trên cao và sương mù nặng trĩu trên những con đường nườm nượp xe cộ của thành phố. Thời tiết bắt đầu lạnh, hơn cả tuần nay. Người không nhà đứng co ro nơi hiên của một ngân hàng ở góc đường, chờ đợi kẻ từ tâm.
20/11/2014(Xem: 11054)
Tôi đã lớn lên cùng với những dòng Bát Nhã Tâm Kinh. Những lời sắc bất dị không đã nghe âm vang như tiếng mõ ban mai, như tiếng tim đập của những ngày vui và của những đêm buồn, như tiếng mưa rơi mái hiên trong những buổi chiều ngồi đọc thơ Nguyễn Du.
20/11/2014(Xem: 14468)
Vị trí địa lí và các sinh hoạt văn hóa kinh tế giữa Trung Quốc (TQ) và Việt Nam (VN) đã để lại nhiều dấu ấn trong ngôn ngữ theo dòng thời gian, nhất là khi Phật giáo (PG) du nhập vào Đông Nam Á và TQ. Phần này chú trọng vào các cách đọc (âm Hán Việt) của chữ 梵 phạn hay phạm trong các tài liệu cổ TQ và các dữ kiện tương ứng trong tiếng Việt. Các tài liệu viết tắt là TVGT (Thuyết Văn Giải Tự - khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum,
19/11/2014(Xem: 5858)
Có người không hiểu Phật, than Phật giáo tiêu cực, nói toàn chuyện không vui. Từ đó Tăng ni chỉ được nhớ tới trong những ngày buồn như đám tang, cúng thất, cầu an cho người sắp đi. Rồi thì người ta còn đi xa hơn, xuống thấp hơn một tí, là khi nói đến Tăng ni là họ tưởng ngay đến những người mất sạch, một cọng tóc cũng không có. Thậm chí họ cho mình cái quyền châm chọc khiếm nhã khi nhìn thấy Tăng ni đâu đó. Một chuyện mà có uống mật gấu họ cũng không dám làm đối với những người thế tục cạo trọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]