Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ bi với những vong linh.

18/03/202307:00(Xem: 2400)
Từ bi với những vong linh.

le thi kha ai (44)

Từ bi với những vong linh.


Thông thường, người ta thường quan niệm “từ bi là dành lòng từ cho những chúng sinh đang hiện hữu, đang còn một đời sống thực tại” còn đối với những người đã khuất, những vong linh không còn hiện hữu trên cõi đời thì ít khi người ta nghĩ đến thực niệm từ bi, thế nhưng đối với những vong linh đã khuất, lòng từ bi cũng là điều vô cùng cần thiết.

Gia đình tôi trước đây sinh sống trên một mảnh đất rộng gần 3.000 mét vuông, xung quanh nhiều cây cối, vắng vẻ và biệt lập, chiều xuống khoảng tầm 7 giờ tối là rất ít người qua lại, nơi đây ngày xưa là vùng kháng chiến, tôi được nghe Ông Bà mình kể lại ngày trong chiến tranh, bước ra cổng là thấy xác người nằm lăn lốc vì bị trúng đạn, nhiều lính tráng hy sinh, bỏ mạng nơi này. Phía sau khu đất nhà tôi là những ngôi mộ cổ đá ong đã có từ rất lâu, chiều xuống, chỉ có mình tôi ra sau thắp hương, có hôm đi đâu về trễ, Trời tối mù, tôi ra sau mộ, người nhà vẫn hỏi “Giờ này mà dám đi ra ngoài sau hả?” Tôi bình thản trả lời là “đâu có gì đâu”. Thật sự trong lòng tôi chưa bao giờ sợ hãi những ngôi mộ cổ và mộ Ông Bà, mỗi lần ra thắp hương, tôi thường ngồi lại rất lâu vì khoảng không gian ở đó rất là yên tĩnh, tôi không có cảm giác gì sợ sệt mà cảm thấy xung quanh mình luôn có Ông Bà phù hộ, mỗi lúc gặp chuyện gì buồn, rối rắm, tôi vẫn ra sau mộ ngồi thủ thỉ một mình và tôi có một linh cảm có người lắng nghe, chia sẻ và hóa giải cho tôi, quả thật là sau đó, tôi rất mau chóng vượt qua cảm giác bế tắc, buồn bã, bệnh tật cũng được tiêu trừ.

Có một thời gian, xung quanh nhà tôi thường xảy ra những hiện tượng lạ lùng, cứ khoảng 1 giờ đêm, màn hình máy tính tôi đang ở chế độ ngủ thì tự động bật lên, cửa sổ trên phòng có tiếng gõ dù ở trên cao và xung quanh không có hành lang, chiếc xe đạp sút sên nằm một chỗ khá lâu, bỗng dưng dây sên trở lại bình thường dù trong nhà không có ai sửa lại.

Một buổi chiều nọ, khi tôi đang ngồi sau nhà cho Mèo ăn, phía trước mặt tôi là căn phòng tắm bỏ hoang, lâu rồi không còn sử dụng, khi đó bất chợt tôi ngước mặt nhìn lên thì thấy một người thanh niên ở trong phòng tắm, rồi đi về phía vách tường, tôi nhoài người ngó theo vì có vài thắc mắc trong đầu nhưng tôi không thấy người thanh niên đó ở đâu nữa, tôi có một linh cảm là lạ, khi tôi hỏi những người trong nhà thì không có ai ở trong nhà tắm đó cả.

Một buổi tối khuya, khi Dì tôi đang đứng ngoài sân thì thấy bóng người thanh niên đi trong sân nhà, khi hỏi ra thì không ai còn thức rồi những bóng trắng vào giấc khuya là đi lướt qua cái đường hẻm giữa hai căn nhà, có khi cái bóng lừng lững trắng xát đi ngang qua cửa, rồi cánh cửa lùa tự nhiên kéo lại mà không có ai va chạm, rất nhiều những hiện tượng lạ diễn ra xung quanh ngôi nhà tôi ở. Khi đó, có người khuyên tôi nên trấn yểm gì đó cho những vong linh đừng quấy phá, nhưng tôi nghĩ những vong linh cũng như một chúng sinh, dù mất đi nhưng linh hồn họ đâu đó vẫn còn, vì lý do gì đó chưa siêu thoát được, miền đất này ngày xưa nhiều người chết, nên vong linh là điều không thể tránh khỏi. Người ta nói, những nơi bỏ hoang một thời gian sẽ có vong linh vào trú ngụ, tôi tin điều này là có thật vì người sống hay người đã khuất, ai cũng cần một nơi để nương náu, những vong linh họ không có thân mạng nhưng hồn khí họ vẫn còn, có thể họ thể hiện những việc làm nào đó cho ta thấy là cũng có một lý do. Vậy là tôi đi mua bánh trái, nhang đèn, giấy tiền vàng bạc về bày mâm cúng, chiều hôm đó, khi Trời sụp tối, tôi mang mâm cúng ra sau nhà, tôi tự viết một bài khấn rồi thắp nhang khấn vái, tôi chỉ cầu mong những vong linh không còn bị đói khát, nếu có trú ngụ trong mảnh đất nhà tôi thì cũng ở yên lành, đừng quấy phá, khi đó tôi khấn bằng một lòng thương vì tôi nghĩ những vong linh cũng giống như một đứa trẻ con, một người đang bị đói khát, với con người khi đói khát, chúng ta phải cho ăn, cho uống, với người trong gia đình đã khuất thì chúng ta cúng kiếng đủ đầy thì tại sao với những vong linh xa lạ, chúng ta lại dùng cách trấn yểm? Trấn yểm chẳng khác nào đẩy một chúng sinh đang đói khát, đang cùng đường vào tận chân tường, vào căn phòng biệt giam rồi khóa trái cánh cửa, không cho ăn uống, không được giải thoát, như vậy chẳng những không hiệu quả mà càng làm cho sự bức bối, quấy phá của những vong linh ngày càng nhiều hơn.

Có một điều lạ là sau hôm tôi lập bàn cúng và khấn nguyện thì kể từ hôm đó đến nay, gia đình tôi không còn xảy ra những hiện tượng kỳ lạ đó nữa.

Có những nơi khi chúng ta đến ở thường gặp hiện tượng khó hiểu, nhất là ở những nơi vắng vẻ, rừng núi hoặc những ngôi nhà bỏ hoang, lâu năm không có người ở. Vì sao mình lại hay gặp những hiện tượng lạ lùng ở nơi như vậy? ở góc độ tâm linh, tin vào thuyết luân hồi và cho rằng linh hồn còn tồn tại sau khi chết, người ta lý giải rằng có thể vì người khuất mặt khuất mài, họ đang trú ngụ ở đó đã lâu, giờ mình đến ồn ào, chiếm chỗ thì họ không đồng ý, họ đuổi mình đi, nên mới có nhiều người khi nằm ngủ ở chỗ lạ là bị ai đó đánh vào người, nắm chân kéo xuống đất hoặc đứng nhìn họ chằm chằm… cũng có thể lâu rồi không ai cúng kiếng, những vong linh đói khát, khi thấy có người đến ở thì họ xin một bữa ăn. Thay vì dùng bùa trấn yểm thì khi đến chỗ lạ, mình nên cúng một ít bánh nước rồi thắp hương khấn nguyện, đọc một bài Kinh, xin người khuất mặt cho mình được ở đây và đừng quấy phá vì người khuất mặt đôi khi cũng là những quế nhân phù trợ cho mình tai qua nạn khỏi nếu mình biết thương và tôn kính họ.

Người sống hay người đã khuất cũng đều cần sự từ bi trong đối xử, một cái cây cũng có linh hồn, khi đã trồng lâu năm mà bị chết, chúng ta cũng thấy tiếc thương, nếu chúng ta đã có lòng xót thương cho cây cỏ, chúng sinh thì đối với vong linh cũng vậy, lòng từ bi không chỉ dành riêng người đang sống mà cũng cần dành cho những người đã khuất.

Linh hồn người đã khuất có thật sự tồn tại hay không? Đến nay vẫn chưa có bằng chứng nào cụ thể nhưng về mặt tâm linh, vẫn luôn có sự tương giao cảm xúc giữa người sống và người đã khuất, việc trù yểm bùa chú là một hình thức phản khoa học và mê tín dị đoan, bùa chú không mang tính khai sáng, cứu rỗi, ngược lại còn ẩn chứa tà thuật khi một số người lợi dụng đạo giáo thần quyền để làm điều sai trái, vì vậy để tránh được sự quấy phá của những vong linh, chỉ với một phương cách là dùng lòng từ bi để hóa giải bởi trong đạo Phật luôn mong muốn mọi chúng sinh khi đã vãng sanh thì sẽ được về với cõi niết bàn, việc trì tụng cũng là cách hộ niệm, dẫn đường cho những người cận tử được ra đi nhẹ nhàng, về nơi an lạc, nếu có những vong linh còn vất vưởng đâu đó, không có nơi thờ cúng, không nơi nương tựa thì chúng ta nên đọc Kinh, trì tụng và cúng kiếng cho họ để họ được siêu thoát, khi đã được khai hóa, những vong linh không còn luyến tiếc cõi trần và từ đó không còn theo quấy phá người sống nữa.

Những hiện tượng kỳ lạ liên quan đến vong linh, đến nay người ta vẫn chưa thể lý giải được và cũng chưa ai có đủ cơ sở để bác bỏ rằng vong linh là không tồn tại. Từ bi với những vong linh nghe như một thuật ngữ mơ hồ nhưng khi chúng ta ý thức được rằng sự sống và cái chết là một vòng luân hồi giữa duyên sinh và hoại diệt, biết khởi niệm yêu thương, tồn tại lòng từ thì chúng ta sẽ thấy rằng vong linh cũng cần sự hộ trì và cứu rỗi.

 

Phật tử Võ Đào Phương Trâm

(Pháp danh An Tường Anh)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 12805)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16728)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11954)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7550)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 20930)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4437)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4205)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3616)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13291)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 3143)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]