Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vai Trò Của Người Cư Sĩ Phật Tử

15/02/202314:16(Xem: 3176)
Vai Trò Của Người Cư Sĩ Phật Tử


tv quang duc-2

Vai Trò Của
Người Cư Sĩ Phật Tử



Thế giới ngày nay mà chúng ta gọi là “thời đại mới” đổi thay đến chóng mặt, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống trong đó có tôn giáo. Tuy không có “thánh chiến” được công khai tuyên bố, nhưng cạnh tranh để bành trướng, giành giật tín đồ, mua chuộc dưới mọi hình thức để cải đạo, kể cả bằng bạo lực đã diễn ra hàng ngày và gần như trên quy mô toàn cầu.

Điều này dễ hiểu bởi vì khi tín đồ bành trướng thì sức mạnh chính trị bành trướng. Khi sức mạnh chính trị bành trướng thì khống chế được chính quyền hoặc chiếm đoạt được chính quyền. Khi chiếm đoạt được chính quyền thì chính quyền là phương tiện mạnh nhất để áp đặt hoặc bành trướng hoặc cải đạo hàng loạt. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nói lên lời cảnh báo về kế hoạch cải đạo quy mô mà Á Châu là mảnh đất màu mỡ nhất để thi hành kế hoạch này. Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi đó là “chiến tranh văn hóa”.

Trước tình hình đó hàng ngũ tăng-ni, một mình không đủ sức đảm đương mọi chuyện mà cần có sự trợ giúp của mọi tầng lớp Phật tử và cư sĩ tại gia, không ngoài mục đích gìn giữ tín đồ và sự trường tồn của đạo pháp và giữ gìn bản sắc dân tộc. Một dân tộc không có bản sắc chỉ là khối “ngoại kiều” tạp chủng sống trên cùng một đất nước. Khi đất nước không có bản sắc – tức không có một dòng chính văn hóa  và tâm linh (mainstream) thì dân tộc khó đoàn kết.  Khi đó lực lượng chính trị sẽ “vọng ngoại” để tìm chỗ dựa, nói khác đi đất nước sẽ bị ngoại bang khuynh loát. Chính vì thế mà các quốc gia Âu Châu và Hoa Kỳ đã nổi lên những chủ trương bảo vệ Thiên Chúa Giáo khi số dân không phải Da Trắng khác đạo, khác văn hóa gia tăng trên đất nước họ.

Nói về cư sĩ tu tại gia, họ không phải ai xa lạ - trước hết họ là Phật tử - nhưng là một Phật tử không bình thường.  Người cư sĩ Phật tử có những đặc điểm như sau:

-Người cư sĩ tại gia, ngoài việc tụng kinh niệm Phật, hành thiền như các Phật tử bình thường, họ còn có khả năng nghiên cứu kinh điển. Rất nhiều vị là các nhà học Phật uyên bác có khả năng luận giải kinh điển, giảng dạy, hành lễ và thuyết pháp. Những đỉnh cao chói lọi của hàng cư sĩ trong quá khứ phải kể tới Vua A Dục của Ấn Độ, Lương Vũ Đế của Trung Hoa, Vua Lý Thái Tổ của Việt Nam. Và lịch sử Việt Nam cận đại phải ghi công các bậc cư sĩ lỗi lạc như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Đình Thám, Nguyễn An Ninh, học giả Đoàn Trung Còn, Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục.  Mới đây có Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng, Phạm Công Thiện, một số cư sĩ tiếp nối như Tâm Diệu, Nguyên Giác, Hoang Phong, Vĩnh Hảo và rất nhiều cư sĩ khác viết về Phật pháp không biết mệt mỏi, các dịch giả như Trúc Thiên, Phạm Kim Khánh và nhà soạn Từ Điện Phật Học Anh-Việt-Pali Thiện Phúc v.v…

-Một số không có khả năng nghiên cứu Phật học thâm sâu, do tín tâm cao, do tu hành tinh tấn hoặc đáp ứng được nhu cầu thiết thực của đời sống đã quy tụ được một số đông Phật tử qua công tác hộ niệm, ủy lạo, thiện nguyện, xây cầu, xây đường, mở quán cơm chay miễn phí, phát quà cho những gia đình nghèo, thăm viếng bệnh nhân gặp khó khăn…từ đó góp quan trọng vào việc gìn giữ tín đồ và xoa dịu phần nào những khổ đau của xã hội mà không một nhà cầm quyền nào có thể chu toàn trách nhiệm. Trong và ngoài nước hiện nay hình thành rất nhiều nhóm cư sĩ Phật tử như thế này.

-Cư sĩ Phật tử có thể là các thương gia giàu có chẳng hạn như Ông Cấp Cô Độc năm xưa là đại phú thương. Khi các đại phú thương phát Bồ Đề Tâm thì họ có thể để lại những di sản rất lớn. Chẳng hạn như nhờ Ông Cấp Cô Độc dám trải vàng mua vườn thượng uyển của Thái Tử Kỳ Đà thỉnh Phật thuyết pháp mà ngày nay chúng ta mới có bộ Kinh A Di Đà. Hiện nay trong nước có rất nhiều đại phú thương phát Bồ Đề Tâm bằng cách bỏ ra cả triệu Mỹ Kim để kiến tạo những ngôi chùa nguy nga, khu du lịch tâm linh, sưu tầm ngọc quý sau đó tôn tạo tượng như: tượng Phật ngọc, tượng Phật Bà Quan Ấm và tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Chắc chắn những pho tượng này sẽ cùng trường tồn với dân tộc.

-Người cư sĩ Phật tử có thể là những nghệ sĩ. Nếu là nghệ sĩ lớn, tác phẩm của họ có thể trở nên bất tử , lưu truyền rộng rãi trong dân chúng chẳng hạn như bài thơ Lửa Từ Bi của thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong  Pháp Nạn 1963 cách đây 50 năm. Hiện nay ở trong nước, nhà thơ Phạm Thiên Thư được tôn vinh vì những bài thơ đượm mùi Thiền của ông trong thi tập nổi tiếng Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng. Còn nhạc sĩ Phạm Duy lại được ngưỡng mộ vì những bài Thiền Ca và Đạo Ca. Chúng ta nên nhớ, đối với bậc tu hành giải thoát thì ca hát có khi chỉ là phiền não nhưng đối với quần chúng Phật tử thì thi ca, phim ảnh, giải trí lại là phương tiện truyền đạt hữu hiệu nhất. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng chỉ cần nhìn vào số lượng thiền ca, Phật nhạc, đạo ca, phim ảnh, truyện Phật giáo được phổ biến trong quần chúng, chúng ta có thể nói đạo pháp thịnh hay suy.

-Người cư sĩ Phật tử có thể là quốc vương, hoàng hậu, thứ phi, công chúa, đại thần hoặc những vị nắm giữ những vai trò quan trọng trong chính phủ. Hầu hết các ngôi cổ tự  của Việt Nam mà ngày nay đã trở thành di tích lịch sử đều do các vị này lập ra. Tôi có đọc một bài nghị luận trong nước nói rằng nếu Thiền Sư Vạn Hạnh và Thiền Sư Lý KhánhVân cho Lý Công Uẩn xuất gia thì bất quá Lý Công Uẩn chỉ trở thành môt danh tăng chứ không thể đưa dân tộc Đại Việt vào một thời kỳ huy hoàng như vậy. Do đó, trong bất kỳ thời đại nào, nếu lãnh đạo đất nước lại là những vị có lòng với Dân Tộc và Đạo Pháp thì chắc chắn Đạo Pháp sẽ hưng thịnh.

-Sau hết, cư sĩ có thể là các cơ quan truyền thông. Nếu họ có lòng, có trình độ thì truyền thông sẽ là phương tiện mạnh mẽ nhất để hộ pháp và hoằng pháp.  Hiện nay tại hải ngoại có những tạp chí và hệ thống truyền thông do cư sĩ điều hành nổi tiếng như Thư Viện Hoa Sen, Bodi Media, nguyệt san Chánh Pháp và nguyệt san Tinh Tấn.

Hiện nay tại Âu Châu, Hoa Kỳ các tôn giáo cổ truyền đang suy thoái trầm trọng và có khả năng đất nước Hoa Kỳ và Âu Châu sẽ thay đổi diện mạo trong vài chục năm tới. Theo tờ The Guardian ngày 22/1/2023,  nhà thờ ở Mỹ đang phải đóng cửa với số lượng tăng nhanh khi mà giáo đoàn khắp đất nước giảm và thế hệ trẻ từ bỏ Thiên Chúa Giáo cho dù Thiên Chúa Giáo vẫn thống trị nền chính trị Hoa Kỳ. Khoảng 4500 nhà thờ Tin Lành hệ phái Prostestan đóng cửa năm 2019.

Theo www.youtube.com/watch?v=Rfx4glTU5JQ  mỗi năm có 20,000  người Hoa Kỳ và 70,000 người Pháp cải đạo sang Hồi Giáo. Theo www.independent.co.uk  mỗi năm có 5000 người Anh cải đạo sang Hồi Giáo. Trước thực tế đó họ phải “mở một đường máu” sang Châu Á để để bù đắp lại số tín đồ đã mất trong khi Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh đã bão hòa. Trong khi chúng ta ngồi đây thì từng đoàn gọi là “thiện nguyện” đang tiến sâu vào các vùng xa xôi của Mông Cổ, Miến Điện, Tích Lan, Tây Tạng, Tây Nguyên v.v... nói là để giúp đỡ nhưng thực chất là để dụ dỗ cải đạo ngay tại chỗ. Các vùng đồng bằng mà đời sống dân chúng còn khó khăn, các vùng cao nguyên, rừng núi hoang vu bao gồm nhiều sắc dân thiểu số là mảnh đất màu mỡ để thi hành kế hoạch này. Chỉ cần phái đoàn gọi là “thiện nguyện” đó tới phát quà, khám bệnh, phát thuốc và hứa hẹn một đời sống huy hoàng kiểu Mỹ hoặc sẽ được đi Mỹ… thì cả một buôn làng có thể tân tòng theo đạo mới. Thủ đoạn dùng “chiếc bánh ở trên trời” luôn luôn thành công đối với tầng lớp nghèo khổ, túng quẫn. Họ cần bất cứ cái phao nào, dù là một cọng rơm để bám. Chúng ta không trách họ được. Họ là nạn nhân.

Tuy vấn đề cấp bách như thế nhưng trong hàng cư sĩ Phật tử tôi thấy không có nhiều vị quan tâm. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc hàng cư sĩ Phật tử chúng ta phải có can đảm nhìn vào vấn đề này.

-Trong gia đình, chúng ta phải thẳng thắn giáo dục con cái về nạn cải đạo qua hôn nhân.

-Những Phật tử  trên giường bệnh trước giờ phút lâm chung vì không có tăng/ni hộ niệm hoặc hộ niệm các chùa tính giá đắt quá đã bị cướp đi linh hồn.

-Những  Phật tử túng thiếu cũng chỉ vì sự giúp đỡ nhỏ mà nỡ vứt đi đạo ông bà. Giới trẻ gia đình gốc Phật Giáo nhưng không am hiểu giáo lý, tham dự những cuộc vui chơi có mục đích “dụ đạo” cũng dễ dàng bỏ đạo.

-Con gái lấy chồng Đại Hàn tân tòng theo đạo mới, trở về nước cải đạo ngay ông bà cha mẹ mình. Người Việt tại Mỹ theo đạo Tin Lành du lịch Việt Nam, tới đền thờ Đức Trần Hưng Đạo họ không chịu bước vào vì họ không thờ ngẫu tượng.


Trong nước đã có một số  đề nghị chống lại sách lược cải đạo, nhưng hải ngoại thì chưa thấy. Tôi chưa hình dung được kế hoạch “phản cải đạo” phải bao gồm những bước như thế nào. Nhưng theo tôi có hai bước quan trọng:

-Thứ nhất: Bản thân chúng ta là một Phật tử phải ý thức được giá trị cao cả của Đạo Phật. Đạo Phật đang từng bước trở thành lương tri của nhân loại cho nên dù hoàn cảnh nào đi nữa cũng phải giữ tâm Bồ Đề cho kiên cố, tức không bao giờ bỏ đạo. Để minh chứng cho sự cao thượng của Phật Giáo tôi xin ghi ra đây lời nói chân tình của một Phật tử người Mỹ tên John vừa được được Phật tử tên Huyền Lam dịch ra Việt ngữ và đưa lên mạng lưới toàn cầu, ”Suốt mấy năm nghiên cứu Phật giáo, đến thiền đường này, không một ai khuyên tôi quy y làm người Phật tử. Tôi rất ngạc nhiên và ngưỡng mộ cách hành xử của người con Phật. Tuy nhiên điều làm tôi và cả thế giới ngỡ ngàng khâm phục hơn cả chính là sự kiện hai thánh tích Phật giáo bị Taliban phá hủy. Trong niềm tiếc thương vô biên, người Phật tử toàn thế giới không hề có một lời kêu gọi trả thù hay phỉ báng tôn giáo của những người gây ra hành động này. Cá nhân tôi bàng hoàng, rung chấn con tim tận cùng khi nhận ra rằng: Trong sự mất mát không thể bù đắp này, nhân loại thế giới đang có cơ hội hiếm hoi chiêm nghiệm thành qủa của một tôn giáo mà lòng từ bi, trí tuệ không phải chỉ trong sách vở. Không phải chỉ thể hiện qua một người, vài người mà hằng trăm triệu người con Phật. Tôi quyết định quy y để chính thức làm một người Phật tử nhỏ bé trong mấy trăm triệu người này.”

-Thứ hai: Đối với tập thể, phải có kế hoạch hoạt động xã hội, thiện nguyện bao gồm luôn cả công tác văn hóa theo tinh thần thực tiễn “Có thực mới vực được đạo” để hoằng dương chánh pháp và giữ gìn tín đồ.  Chúng ta không thể mơ màng sống với hào quang đạo Phật là đạo tốt lành nhất để rồi năm mười năm nữa, bừng mắt dậy thấy Đạo Phật trở thành thiểu số trên chính quê hương mình.

-Thứ ba: Chúng ta phải đánh bật quan điểm sai trái cho rằng Đạo Phật yếm thế và hư vô hóa cuộc đời. Chúng ta phải viết làm sao, tu làm sao, sống làm sao để cho thấy Đạo Phật tôn trọng và mở mang trí tuệ cho con người. Với Đạo Phật, nhân loại sẽ sống trong tình huynh đệ, bình đẳng, không  hận thù, kỳ thị. Đạo Phật là viên thuốc bổ, là nước Cam Lồ giải thoát giúp con người sống có trách nhiệm, đạo đức giữa một thế giới ngày càng trở nên căng thẳng, khó khăn và đầy bạo động. Mục tiêu tối hậu của Đạo Phật là giúp chúng ta sống hạnh phúc, an vui, nhẹ nhàng mà không tổn hại tới ai qua con đường Bát Chánh Đạo và Thập Thiện.

Thiện Quả Đào Văn Bình






 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/02/2015(Xem: 3458)
Em có thói quen cứ những ngày cuối năm thường thích lật những chồng thư cũ của bạn bè ra đọc lại, thích tìm kiếm dư âm của những chân tình mà các bạn đã ưu ái dành cho em. Lá thư của Chị đã gây cho em nhiều bâng khuâng xúc động và ngậm ngùi vô cùng vì đó là những nét chữ kỷ niệm của Chị còn lưu lại trên cõi đời này! Đúng vậy, Chị đã ra đi, bỏ lại đằng sau tất cả những ưu tư phiền muộn của cuộc đời và em đang đọc những dòng chữ của Chị đây.
12/02/2015(Xem: 17705)
Mơ màng cát bụi từ thuở nào mới mở mắt chào đời bên ghềnh biển Quy Nhơn rờn mộng ấy, thầy Đức Thắng sinh năm 1947, suốt một thời tuổi trẻ hay chạy rong chơi qua cánh đồng lúa xanh Phổ Đồng, bồng tênh mấy nẻo đường quê hương Phước Thắng ngan ngát cỏ hoa và thả diều tung bay trên bầu trời Tuy Phước lồng lộng bát ngát đầy trời trăng sao in bóng mộng sông hồ. Rồi lớn lên, thường trầm tư về lẽ đời vô thường sống chết, nên từ giã quê nhà, thao thức vào Nha Trang đi xuất gia theo truyền thống Thiền tông Phật giáo đại thừa. Sau đó vài năm chuyển vào Sài Gòn, tiếp tục con đường học vấn, tốt nghiệp Cao học Triết Đông phương và Phật khoa Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975.
05/02/2015(Xem: 14296)
Thơ là gì ? Thi ca là cái chi ? Có người cắt cớ hỏi Bùi Giáng như vậy. Thi sĩ khề khà trả lời : “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ, nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết.”* Tuy nói thế, nhưng suốt bình sinh trong cuộc sống, thi sĩ chỉ dốc chí làm thơ và sống phiêu bồng, lãng tử như thơ mà thôi.
04/02/2015(Xem: 31634)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
02/02/2015(Xem: 12092)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát, nghe theo lời dạy của sư phụ phải ở ẩn một thời gian rồi sau mới ứng cơ giáo hóa. Ngài được Ngũ tổ đưa đến bến Cửu giang rồi chèo đò qua sông đi về phương nam, đến thôn Tào Hầu (曹候村), phủ Thiều Châu (韶州府) nương náu trong một am tranh. Lưu Chí Lược 刘志略 là một nhà Nho chưa biết ngài kế thừa Tổ vị, thấy ngài tu khổ hạnh khiêm cung, bèn hết lòng hộ trì. Ông có một người cô ruột là Thiền ni Vô Tận Tạng (無盡藏比丘尼) không rõ ngày sanh, chỉ biết bà mất vào năm 676 sau TL. Lúc ấy Lục tổ 38 tuổi.
25/01/2015(Xem: 5800)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
25/01/2015(Xem: 5912)
Buổi chiều ghé ngang bưu điện, ngoài những thư từ tạp nhạp, còn có một gói giấy mỏng như cuốn sách, không biết của ai gửi. Tôi quẳng tất cả vào chiếc thùng giấy sau xe. Trên đường về, có một cú phone đường dài, thì ra anh Dũng, một người quen đã lâu không gặp mặt. Anh bảo vừa gửi tôi một cuốn phim và hỏi đã nhận được chưa. Anh nói lúc xem phim cứ nhớ đến tôi và bất chợt muốn nghe tôi chia sẻ đôi điều gì đó. Tôi không phải tín đồ của điện ảnh, chẳng mấy khi xem, nói gì là nghiện. Nhưng lúc xem xong cuốn phim đó, xem và hiểu theo cách riêng của mình, chẳng hiểu sao cứ bâng khuâng mấy giờ liền...
22/01/2015(Xem: 5997)
Ai sống ở đời cũng phải dẫm lên những buồn vui mà đi về phía trước. Có một ngày tôi chợt phát hiện ra mình có những chuyện ngậm ngùi, có thể từng khiến nhiều người thấy buồn, nhưng tôi nhớ hình như chưa nghe ai nhắc tới. Bỗng muốn kể chơi vài chuyện buồn trong số đó cho vui! Tôi chỉ mới về Tàu hai lần trong mười năm xa xứ. Tôi từng đứng một mình trên bến Thượng Hải để ngắm nhìn con sông Hoàng Phố trong đêm, đêm ở đó thường nhiều gió lạnh. Tôi từng một mình thả bộ trong phố đêm Lệ Giang cho đến lúc quán xá bắt đầu đóng cửa. Nhiều và khá nhiều những nơi chốn đây kia trên xứ Tàu đã hút hồn tôi, đến mức đã rời đi cả tháng trời sau đó còn cứ thấy nhớ như điên.
10/01/2015(Xem: 17583)
Chúng tôi cùng được sinh ra từ một người cha, một người mẹ. Chúng tôi cùng được lớn lên trong một căn nhà, lúc lớn, lúc nhỏ, lúc chỗ này, lúc chỗ kia, nhưng cuộc sống gia đình tương đối êm ấm, thuận hòa. Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy. Vì vậy mà anh chị em ruột thịt chúng tôi thật là đông: đến 7 gái, 7 trai! Bầy con lớn như thổi, thoắt cái mà người chị cả đã trên 70, và cậu em út thì năm nay đúng 50. Anh chị em chúng tôi, mỗi người mỗi ý hướng, mỗi sở thích khác nhau, chọn lấy lối sống của mình theo lý tưởng riêng, hay theo sự xô đẩy của hoàn cảnh xã hội. Nhiều anh chị em đã đi thật xa, không ở gần ngôi từ đường bên ngoại mà mẹ đang sống với chuỗi ngày cuối đời ở tuổi cửu tuần.
05/01/2015(Xem: 3399)
Chiều nay từ cơ quan về nhà, Lâm chở theo một cô gái: Cô Thắm. Ngọc, vợ chàng, không mấy ngạc nhiên vì Lâm đã trình bày với nàng từ hôm qua. Thắm 17 tuổi, cán bộ văn nghệ cơ quan Xây Dựng Nông Thôn mà Lâm là Chỉ Huy Trưởng. Ăn cơm xong đâu vào đó, theo kế hoạch, vợ chồng Lâm kéo về nhà ông bà Kính, thân sinh của Ngọc, chỉ cách đó 10 phút đi bộ. Ông bà Kính cũng không mấy ngạc nhiên về sự hiện diện của Thắm tối nay, vì ông bà cũng được Lâm thưa trước về vấn đề của Thắm. Bà Kính mời Thắm ngồi. Rồi với vẻ thân thiện cởi mở cố hữu, bà vui vẻ bảo Thắm: - Thời buổi này trai thiếu gái thừa, khó dễ người ta làm gì thế? Thắm tưng tửng, giương cặp mắt ngây ngô thật thà đáp lại: - Cũng một vừa hưa phửa thôi chớ!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]