Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đến với Đạo Phật

06/12/202219:57(Xem: 1897)
Đến với Đạo Phật

phat thuyet phap 2


 ĐẾN  VỚI  ĐẠO PHẬT
Quang Kính Võ Đình Ngoạn



Thuở còn niên thiếu, ông  Sáu đến với đạo Phật không phải vì niềm tin tôn giáo. Cách đây khoảng hơn 6 thập kỷ, chàng thiếu niên tên Sáu ở độ tuổi 15. Anh ta có một người bạn học cùng lớp rũ đi sinh hoạt Hướng Đạo. Sáu được người bạn kể qua chương trình sinh hoạt của đoàn thể nầy, khiến chàng rất thích thú. Bởi những hoạt động ấy Sáu thấy nó thích nghi với bản tính năng động ở độ tuổi thiếu niên đang tràn đầy sức sống của mình.

Sáu mơ ước được dự những cuộc cắm trại  ngoài trời  giửa cảnh thiên nhiên núi non hùng  vĩ, để chàng được hít thở bầu không khí trong lành. Nhất là khi màn đêm từ từ buông phủ, bóng tối bao trùm mọi cảnh vật, đó cũng chính là lúc Sáu cùng  các bạn đang  quay quần bên ánh lửa hồng, lòng nôn nao chờ đợi chương trình sinh hoạt lửa trại khai diễn. Chàng ước mơ tham dự những trò chơi lớn, tìm kiếm báu vật bằng dấu đi đường, mật thư, truyền thông tin bằng ký tự đã mả hóa ( morses ),  chuyển đi bằng còi hay cờ ( semaphore flag ). Sáu mơ được học các gút thường dùng cho những cuộc cắm trại như gút thuyền chài , gút cẳng ngỗng, gút dẹt, tìm hướng đi bằng la bàn ….Những  suy tư, ước mơ của Sáu bổng chốc tan biến, khiến chàng trở về với hiện thực. Khi trống trường vang lên tiếng tùng, tùng,tùng… báo hiệu giờ tan học đã điểm.

Chiều hôm ấy Sáu đi học về, bước vào nhà thấy ba đang ngồi đọc báo. Chàng cất tiếng chào.    

       Thưa ba con đi học về. Rồi Sáu đến chổ ba đang ngồi. Chàng thỏ thẻ thưa

        Thưa ba, con xin phép ba cho con được sinh hoạt  trong đoàn thể Hướng Đạo. Bởi sinh hoạt  trong đoàn thể nầy rất vui ba ạ, vả lại nó giúp cho con trở thành một người tháo vát, giúp con có thể ứng phó trước những khó khăn, bất cập trong cuộc sống. Ba có cho phép không ba ?

Ba Sáu ngừng xem báo. ngẩng đầu lên, ngước mắt nhìn chàng, trầm ngâm  trong giây lát. Rồi ôn tồn, khẻ bảo.

      
Nầy Sáu, ba thiết nghĩ đoàn thể Hướng Đạo không thích hợp cho cơ thể hay đau ốm của con. Bởi Hướng Đạo thường tổ chức những ngày cắm trại ngủ đêm trong rừng núi, khiến con dể bị bịnh  ba không muốn như thế .Ba nghĩ con nên vào đoàn  thể Gia Đình Phật Tử có vẻ thích hợp với thể lực của con hơn. Ba nghĩ  ngoài việc ít đi trại, các môn huấn luyện khác đều  giống bên Hướng Đạo. Vả lại truyền thống dòng tộc chúng ta, đã  bao đời tin theo đạo Phật . Bởi thế con nên đi sinh hoạt Gia Đình Phật Tử để tìm hiểu về tôn giáo của mình, rồi tin tưởng, tu tập  theo giáo pháp của  đức Bổn Sư. Đó cũng là điều ba hằng mong ước.  Từ việc xin đi sinh hoạt Hướng Đạo bất thành, khiến Sáu có duyên lành trở thành đoàn sinh  Gia Đình Phật Tử theo như sự mong muốn của cha mình.


Từ  đó chủ nhật hằng tuần , Sáu đều đến sinh hoạt với đoàn thể Gia Đình Phật Tử tại chùa tỉnh hội, song cũng lắm khi đoàn đến tham quan, sinh hoạt ở các khuôn hội,  hay tổ chức những cuộc cắm trại vui chơi trong ngày… khiến chương trình sinh hoạt trở nên sống động, giúp đoàn sinh thỏa mái, vui vẻ chấp nhận đến với đoàn, đội.  

Thông thường trước khi sinh hoạt, các đoàn sinh tập hợp chỉnh tề trước sân chùa. Anh Lân đoàn trưởng giới thiệu với các bạn, Sáu là một đoàn sinh mới gia nhập. Giới thiệu xong anh bảo các đoàn  sinh từng hàng  từ từ bước vào chánh điện để lể Phật, sám hối theo nghi thức dành riêng cho Gia Đình Phật Tử. Lễ Phật xong,  anh Lân  giao nhiệm vụ cho anh đoàn phó sinh hoạt   đoàn, rồi anh dẫn Sáu vào đàm quán. Hai anh em ngồi vào ghế, anh đoàn trưởng nhỏ nhẹ nói về cư sĩ  Tâm Minh.

       
Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, một trong số các vị sáng lập Hội  An Nam Phật Học. Cụ Tâm Minh luôn luôn nặng lòng ưu tư đến tuổi trẻ. Trong một kỳ họp Đại hội đồng Tổng hội An Nam Phật Học, khi đề cập đến thế hệ thanh thiếu niên. Cụ Lê Đình Thám đã phát biểu “ Không có thành tựu bền vững nào lại không nhắm tới hàng ngũ thanh thiếu niên. Họ là những người tiếp nối chúng ta trong ngày mai “. Bởi thế vào năm 1940 cụ Tâm minh thành lập Đoàn Thanh niên Phật Học Đức Dục.  Sau một thời gian hoạt động. Đoàn Thanh Niên Phật Đức Dục được đổi danh xưng thành Gia Đình Phật Hóa Phổ.  Gia Đình Phật Hóa Phổ là tiền thân của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ngày nay. Mục đích của đoàn thể Gia Đình Phật Tử là đào tạo những thanh thiếu, ấu niên thành những người Phật tử chân chính. Muốn thực hiện được lý tưởng thành người Phật tử chân chính. Chúng ta cần tư duy theo những điều dạy bảo của đức Như lai.

      
Thuở đức Phật còn tại thế, Ngài dạy : Bước đầu đến với đạo Phật, không phải đến để mà tin. Do đó những ai đã đến với Phật giáo nên đến trong tinh thần tìm đọc các kinh sách, nghe những bài giảng về giáo lý nhà Phật. Từ đó ghi chép, tư duy những điều đã nghe , đã đọc để hiểu rõ những lời  dạy bảo ấy. Nếu nhận thấy những điều mình đã đọc, đã nghe các thầy giảng dạy có lợi ích thiết thực cho bản thân, cho gia đình, giúp thân tâm ta an lạc, giúp cho mọi  người được an vui, xã hội  được sống trong cảnh thái hòa, không đau khổ thì hãy thực hành và tin theo những lời dạy bảo ấy. Lời dạy của đức Bổn Sư,  cũng chính là phương pháp tu học theo tinh thần Văn -Tư - Tu. Một trong số muôn vàn Phương pháp tu tập của Phật giáo.

        
Nầy Sáu, hôm nay anh đã nói sơ qua về tiểu sử của Gia Đình Phật Tử Việt Nam, mục đích và hướng đi của đoàn thể nầy. Anh hy vọng rằng trong qúa trình sinh hoạt với đoàn thể. Em sẽ có những nhận định sâu sắc hơn về đạo Phật. Giờ đây hai anh em mình nên ra sinh hoạt chung với đoàn.Trong quá trình đến với Gia đình Phật tử. Sáu nhận định rằng tổ chức Gia Đình Phật tử Việt Nam ngày nay đã thừa hưởng một gia tài quí báu do các bậc Tôn sư, những vị tiền bối sáng lập viên, các huynh trưởng đàn anh đã dày công nghiên cứu chương trình huấn luyện tu học một cách công phu và đầy óc sáng tạo. Các bậc Tôn sư, các vị tiền bối... đã xen lẫn những trò chơi, những lời ca, ý nhạc trong lể nghi sinh hoạt như bài Trầm Hương Đốt, bài Sen Trắng....  Việc đưa văn nghệ, âm nhạc vào chương trình tu học khiến cho ngày tu học trở nên sống động, vui tươi, tình Lam càng thêm lưu luyến như bài Dây Thân Ái .... Trong một cuộc cắm trại nhằm mừng lể chu niên đoàn. Chương trình trại có tiết mục trò chơi lớn đi tìm kho báu. Trò chơi nầy cho đến nay vẫn còn in đậm trong ký ức, một kỷ niệm khó quên, khiến ông Sáu vẫn còn ghi nhớ. Sau giờ nghĩ trưa khoảng 30 phút. Bổng hồi còi vang lên báo hiệu giờ sinh hoạt bắt đầu. Các đoàn sinh lanh lẹ tập họp trước lều Ban Quản Trại. Sau khi các đoàn sinh tập họp chỉnh tề. Anh đoàn trưởng bảo.

        
Các đoàn sinh thân mến, hôm nay anh muốn các em ôn lại những chuyên môn mà các em đã học hỏi được, bằng trò chơi  tìm báu vật. Anh hy vọng các đội Sen Trắng, Sen Vàng, Sen Nâu, Sen Tím  hảy cố gắng thi đua trong tinh thần đồng  đội. Kế đến anh Lân đưa cho mổi đội trưởng một mật thư chỉ dẫn hướng đến trạm truyền tin. Tại đây, các đội sẽ nhận được tín hiệu bằng cờ để đến nơi có dấu đi đường dẫn tới chổ chôn dấu. Kết qủa trò chơi, đội Sen Nâu đã lấy được báu vật. Bởi thế các đội lần lượt trở về tập hợp trước lều Ban Quản Trại. Đội trưởng Sen Nâu trình lên đoàn trưởng một túi vải màu vàng. Anh Lân thò tay vào túi vải lấy ra một mảnh giấy có viết chử, anh khẻ nhìn rồi đọc to dòng chữ ấy “ Phàm làm việc gì, trước phải xét kỷ đến hậu quả của nó “ Kế tiếp, anh gọi đội trưởng Sen Nâu lên nhận giải thưởng cho đội. Phần thưởng được trao là  quyển truyện Bài Học Ngàn Vàng của cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa. Rồi anh bảo:

      
 Các em thân mến, để biết được giá trị đích thực nội dung của câu viết.  Ngay từ giờ phút nầy, anh muốn đội trưởng Sen Nâu đọc câu truyện Bài Học Ngàn Vàng.  Từ đó các đội cùng nhau nghiên cứu, tìm hiểu, đúc kết nội dung chính yếu rồi đàm thoại,đưa đến kết luận. Đội Sen Nâu thắng cuộc, do đó đội trưởng đội nầy được vinh dự làm chủ tọa buổi đàm thoại.

Thuở xưa, tại Tân Cương  thuộc vùng  Trung  Á có một tiểu vương quốc tên là Nhục chi nằm giửa Ấn Độ và Trung quốc. Vua Đột Quyết trị vì vương quốc nầy. Nhân một lần đi săn trở về hoàng cung. Đoàn xa giá nhà vua đi ngang qua một chợ phiên gần kinh thành. Tại phiên chợ có ông lão đang rao bán Bài Học Ngàn Vàng, nhà vua đã mua bài học nầy. Vừa  về đến cung điện, vua Đột Quyết vội vào ngự phòng, nhà vua mở túi gấm ra xem bài học ấy như thế nào? Nhưng nhà vua thật thất vọng, bởi bên trong túi gấm chỉ có vỏn vẹn một mảnh giấy với dòng chử viết thật đẹp như rồng bay phượng múa  “ Phàm làm việc gì, trước phải xét kỷ đến hậu quả của nó “. Ngài nghĩ rằng mình bị lừa phỉnh. Địa vị là một đấng quân vương đầy quyền uy, nhưng lại bị một lão già trong dân giả lường gạt, thật không có gì đau khổ và hổ thẹn bằng. Vua Đột quyết vô cùng  tức giận. Nhà vua sợ có người đọc được dòng chữ nầy nên vội bỏ bài học vào tủ cẩm thạch khóa lại.  Ngay tối hôm đó, nhà vua truyền lệnh quan đề đốc Thanh Phong là người thân tín của mình vào chầu. Sau khi nói rỏ sự việc, ngài truyền chỉ cho quan đề đốc nội trong một tuần phải tìm cho ra tung tích lão già, bắt đem về trị tội. Bởi để lâu lão sẽ trốn qua nước Quế Lâm, nước láng giềng có chung biên giới.


Hầu truy tìm tung tích ông già. Việc đầu tiên,  đề  đốc Thanh Phong  cho dán yết thị có hình ông lão, trong yết thị với nội dung:  nhà vua thấy bài học ngàn vàng rất có giá trị nên muốn thưởng thêm. Nếu đọc được yết thị, ông lão có thể đến bất cứ cơ quan địa phương nào để lảnh thưởng, hoặc có ai nhìn thấy ông lão đến báo cho quan phủ,huyện sở tại. Mặc khác quan đề đốc ra lệnh cho binh sĩ canh gác các cửa thành phải kiểm tra nghiêm ngặt từng người để nhận diện. Ngoài ra Thanh Phong còn ra lệnh cho các toán lính ban đêm đến các khách sạn, nhà dân  gõ cửa kiếm tra kẻ lạ đến trú ngụ… thời hạn một tuần gần kề, song hành tung ông lão vẫn biệt tâm, biệt tích. Rồi một đêm vua Đột Quyết truyền quan đề đốc vào ngự phòng để hỏi chuyện.

      
Nầy đề đốc Thanh Phong. Công việc truy tìm lão già khanh đã có manh mối gì chưa ?  Trẩm muốn sự việc nầy kết thúc sớm.

     
Muôn tâu Bệ Hạ.  Thần đã tận dụng nhiều phương cách để truy tìm tung tích lão già, song vẫn “ biệt vô âm tính ”. Thần thiểm nghĩ sau khi lừa phỉnh Bệ hạ lấy được ngàn vàng. Lão đã “  cao bay, xa chạy “, khiến hạ thần bất lực.

 Vua Đột Quyết khi nghe mấy chữ “ lừa phỉnh Bệ hạ lấy được ngàn vàng “ khiến vết thương trong lòng bộc phát. Ngài đùng đùng nổi giận, cho rằng quan đề đốc đã khi quân, phạm thượng liền hạ lệnh bắt giam quan đề đốc vào ngục thất.  Nhà vua thầm nghĩ, quan đề đốc đã biết chuyện, nếu để rò rĩ khiến kẻ khác biết được việc vua bị lừa gạt, thật là  điều hổ thẹn cho đấng quân vương. Vua Đột Quyết nổi lên ý định giết chết quan đề đốc để mãi mãi  không còn ai biết đến câu chuyện nầy nữa.Nhà vua hạ lệnh cho Thanh Phong uống chén độc dược. Sáng hôm sau, khi các quan văn vỏ chầu trước điện. Quan Thái giám tuyên đọc thánh chỉ với nội dung đề đốc Thanh Phong mưu phản, đang đêm lẻn vào hành thích vua nên đã bị giết. Thạnh Bảo con đề đốc Thanh Phong, một tướng trẻ đang trấn thủ tại biên thùy giáp ranh với Quế Lâm. Thạnh Bảo không tin cha mình đã làm việc phản nghịch, nhưng với tội phản nghịch, chàng cũng khộng thể nào thoát chết. Do đó chàng  sai kẻ thân tín mang thư qua Quế Lâm cầu viện. Mặc khác, Thạnh Bảo tức tốc kéo quân về kinh đô hỏi cho ra lẻ. Sự việc xãy ra quá đột ngột ngoài dự phòng của vua Đột Quyết. Kinh thành bị bao vây, quân lính trong thành không đủ sức chống cự. Nhà vua cùng quần thần đào thoát ra ngoài bằng một đường hầm bí mật đi về hướng lão tướng Hoàng Cái đang trấn giữ. Khi biết tin vua và các quần thần đào tẩu, dân chúng mở cửa nghênh đón Thạnh Bảo vào thành. Việc đầu tiên, Thạnh Bảo đến ngự phòng phá tủ cẩm thạch để lấy châu báu. Song trong tủ trống trơn, chỉ có mảnh giấy ghi dòng chữ “ Phàm làm việc gì, trước phải xét kỷ đến hậu quả của nó “. Thạnh Bảo nghĩ rằng trước khi trốn chạy nhà vua muốn cảnh cáo chàng. Thạnh Bảo lại nghĩ hay đây là một lời khuyên răn. Nếu thế sao nhà vua không theo lời khuyên nên xãy ra cớ sự. Cuối cùng chàng cho rằng đó là một câu viết vớ vẩn nên xé nát.


Vua nước Quế Lâm nhận được thư cầu cứu của Thạnh Bảo, nhà vua cho rằng đây là cơ hội để mình xâm chiếm nước Nhục Chi. Bởi thế nhà vua vội sai tướng Tùng Sơn thống lảnh 10 vạn binh tràn sang biên giới với danh nghĩa giúp Thạnh Bảo diệt trừ ông vua vô đạo, giết hại công thần. Tùng Sơn đi đến đâu đều trưng thu lương thực của dân, không những thế binh lính còn ức hiếp dân lành. Do đó dân chúng càng ngày càng  oán hận Thạnh Bảo đã “ rước voi về  giày mã tổ “, Thạnh Bảo lại có tính cao ngạo, độc tài khiến quần chúng càng thêm xa lánh. Ngược lại, lão tướng Hoàng Cái hộ giá nhà vua, lại có công xông pha chiến trận chống lại ngoại xâm nên người người hưởng ứng. Bởi thế một thời gian ngắn, lão tướng đã quét sạch bóng quân thù. Tướng quân Hoàng Cái dẫn quân về chiếm lại Kinh đô. Thạnh Bảo bị bắt chờ ngày xử trảm. Ngày hành quyết đã đến, vua Đột Quyết đến gần Thạnh Bảo cất tiếng

       
Thạnh Bảo, ta ban cho ngươi một ân huệ. Trước khi chết ngươi có cần nói điều gì không?

      
Thạnh Bảo nghĩ “ được làm vua, thua làm giặc “. Nay Thạnh Bảo đã thua, bị trảm không có gì oán hận.Nhưng  ta chỉ ân hận một điều đã không làm theo lời khuyên viết trên mảnh giấy nằm trong tủ ngọc thạch “ Phàm làm việc gì, trước phải xét kỷ đến hậu quả của nó “.

Vua Đột Quyết sững sờ trong giây lát. Màn kịch Bài Học Ngàn Vàng lại hiện về trong trí óc. Nhà vua truyền lệnh đao phủ ngưng hành quyết. Ngài tha tội cho Thạnh Bảo. Lão tướng Hoàng Cái được tin vôi vả vào cung xin diện thánh để trình bày nổi lo ngại của mình. Sau khi được vua kể lại câu chuyện mua bài học ngàn vàng, dẫn đến việc giết quan đề đốc nên rất ân hận. Lão tướng công nhận bài học rất hữu ích. Hoàng Cái tâu vua nên treo bài học ngàn vàng khắp nơi trong hoàng cung.  


Nói về vua Quế Lâm. Sự kiện 10 vạn binh do lão tướng Tùng Sơn thống lỉnh bị đánh tan tác phải  rút về nước, khiến nhà vua ôm mối hận trong lòng. Vua Quế Lâm định đem quân sang đánh báo thù thì được tin mật báo vua Đột Quyết đang bịnh nặng. Nhà vua  truyền chỉ cho vị tướng đang đóng tại biên ải  tìm cách liên lạc, mua chuộc quan ngự y đầu độc  vua Đột Quyết. Đối với quan ngự y, do lời hứa sẽ được một phần giang  sơn nước Nhục Chi, được cưới một tiểu thư giàu đẹp của xứ người nên đã bỏ độc dược vào chén thuốc dâng lên cho vua uống, nhưng khi ngước mắt lên, nhìn thấy bài học ngàn vàng treo nơi vách nên hoảng hốt tâu chén thuốc có độc. Vua Đột Quyết vô cùng hoảng sợ mồ hôi thoát ra như tắm, nhờ thế bệnh tình của vua cũng hết hẳn, ngài bằng phán hỏi lý do quan ngự y muốn giết mình. Quan ngự y trình bày sự việc khiến mình mang tội. Nhà vua  tha tội cho quan ngự y. Ngược lại thứ phi Hoàng Hoa sống cảnh cô đơn lẻ bóng nơi Tây cung nên nẩy lòng tư thông cùng quan đại thần Lý Bá nên đã mang thai. Để cho thai nhi không ai phát hiện. Lý Bá và Hoàng Hoa cấm các cung nữ tiết lộ sự việc, nếu không sẽ bị xử phạt nặng nề, khiến không một cung nữ nào dám tố giác. Rồi Tây cung nổi lên bất ổn, bởi thứ phi  trở nên  điên loạn, đập phá lung tung. Ngay cả những vật dụng có ghi bài học ngàn vàng. Lý Bá nghĩ rằng thứ phi Hoàng Hoa bị tà ma quấy phá, do đó tâu vua nếu trị bệnh tà nên mời pháp sư Lý Mậu, người có tài trị  được bệnh nầy. Nhà vua chuẩn tấu, truyền Lý Mậu vào chửa trị cho thứ phi. Lý Mậu tâu, muốn việc trị bệnh được hiệu quả. Tây cung cần sự yên tỉnh, nên pháp sư thỉnh cầu các quan lại, vua, hoàng hậu, các thứ phi không đến thăm viếng trong thời gian  Lý Mậu trị bệnh cho Hoàng Hoa. Sự việc xãy ra ở Tây cung, khiến lão tướng Hoàng Cái thấy có điều không ổn. Thứ Phi có  điên hay không?  Chỉ có thái y mới chẩn đoán được. Chưa gọi thái y chẩn đoán bịnh mà Lý Bá đã vội cho là bị tà, khiến Hoàng Cái đặt nhiều nghi vấn nên âm thầm theo dõi. Rồi nhân một lần đến Tây cung. Cung nữ gác cửa bên ngoài không cho vào nên giử lại tra hỏi . Do đó lão tướng biết được Lý Bá và Lý Mậu ban đêm khoảng canh 2 thường ra vào Tây cung bằng địa đạo bí mật được che dấu bằng tấm hoành phi to lớn. Hoàng Cái mai phục bắt ngay tại trận.

Trên đây chỉ là phần tóm lược cốt truyện. Ngoài chuyện quan ngự y, thứ phi Hoàng Hoa còn có nhiều truyện khác như vụ án ông Tổng Hàm giết  thị Nguyệt , bà Năm cây thị là một gian thương,…. Tất cả các vụ án đều  nhằm mục đích nêu lên giá trị, sự ích lợi của Bài Học Ngàn Vàng. Ông Sáu rất thú vị, từ một trò chơi lớn, anh đoàn trưởng  khéo léo hướng dẫn các đoàn sinh đến cuộc đàm thoại về Phật Pháp theo phương  pháp Văn – Tư – Tu để đưa đến kết luận câu viết quả thật là bài học  vô giá. Đó  chính là Chánh kiến, chi đầu trong bát chánh đạo. Tám Con đường dẫn dắt chúng ta đến đời sống  an lạc. Do đó những hành giả khi đã phát nguyện:

            “… Con nhất tâm nguyện sống đời lành  

            Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo

            Lên thuyền Từ vượt qua biển Khổ

             Cầm đuốc thiêng ra khỏi rừng Mê ...”

Ông Sáu thiểm nghĩ,  những hành giả trong bước đầu học Phật cần hành trì theo câu kinh:         

            “… Văn, Tư, Tu xin quyết hành trì 

            Thân miệng ý noi về chánh kiến… “


Đó cũng chính là con đường đưa chúng ta đến cứu cánh vượt thoát bến mê, quây về bờ giác.

                                    

MaryLand, 12/2/2022

 

 

     

 

 

         

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2018(Xem: 4056)
Đọc Thơ Tuyển của Cư sỹ Đào Văn Bình, Tình cờ chúng tôi có được tập sách Tổ Ấm Cuối Cùng, Thơ tuyển và Kịch bản, của cư sỹ Đào Văn Bình xuất bản năm 1987, gởi tặng cố Hòa thượng Thích Thiện Trì, chùa Kim Quang tại thủ phủ Sacramento, CA. Tập sách có hai phần: Phần 1 là Thơ tuyển mà tác giả cho biết là "Sáng tác ròng rã qua 9 năm lưu đày tù ngục và 1 năm phiêu linh qua các trại tỵ nạn". Phần 2 là Kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (Sáng tác từ tại tỵ nạn Sungei Besi). Ở đây tôi chỉ viết cảm hứng của mình khi đọc vài bài thơ trong lúc bị tù đày của một cư sỹ lão thành luôn có tâm với đạo pháp và dân tộc.
12/01/2018(Xem: 4663)
Nhớ lại 3 năm trước, tôi đến Seattle vào một chiều Thu cuối tháng Mười. Vừa rời khỏi sân bay, cảm nhận đầu tiên của tôi đối với đô thị xa hoa có nhịp sống bận rộn này là cái se se lạnh của tiết trời đang độ giữa Thu. Trong tôi lúc đó vẫn còn nỗi bồn chồn lo lắng, tâm trạng của một người vừa xa quê, bước chân vào một đất nước xa lạ. Sự mát lạnh của khí trời như xoa dịu phần nào nỗi lo lắng trong tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi vẫn nhớ như in cảm xúc đầu tiên ấy, và dần dần, tôi nhận ra mình có cảm tình với mùa Thu ở Washington.
15/12/2017(Xem: 6366)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87406)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 137564)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 4028)
Đọc “Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế” của Thích Tín Nghĩa, Nhân dịp Nguyên Giác và tôi ra mắt sách ở Chùa Bát Nhã, Nam California, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa- Viện Chủ Từ Đàm Hải Ngoại Irving, Texas không về dự được nhưng đã có thư cáo lỗi. Từ việc làm hết sức cẩn trọng và khéo léo đó, tôi sinh lòng cảm mến và làm quen với hòa thượng qua điện thư và được hòa thượng ưu ái tặng cho bốn cuốn sách của chính hòa thượng, bao gồm:
07/11/2017(Xem: 3849)
Nhà thấp nhất trong xóm. Mái tole. Cửa gỗ. Sàn gác gỗ sao. Nó khiêm tốn lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng khang trang, kiên cố với beton cốt thép, cửa sắt, cửa kính chịu lực... Diện tích gian dưới của căn nhà cấp 4 này chỉ 24 mét vuông, chia thành hai gian, bếp và nhà vệ sinh chiếm hết gần một nửa, còn lại chừa cho gian phòng khách chật chội với bàn ghế, divan, tủ sách, chỗ để hai chiếc xe máy... Vậy mà vào lúc sáng sớm, khi cơn bão Damrey dữ tợn bắt đầu đổ bộ vào đất liền, hung hăng sấn vào lòng thành phố biển Nha Trang, căn nhà khiêm tốn trong hẻm nhỏ này là nhà duy nhất mở cửa để đón nhận 15 người khách lỡ đường chui vào nương trú để tránh bão. Duy nhất. Vì mọi nhà xung quanh đều đã cửa đóng then cài kín bít từ đầu tối hôm trước.
05/11/2017(Xem: 24589)
Cách Đọc Tên và Phát Âm 23 Chữ Cái, Hiện nay tại Việt Nam cách gọi tên và cách phát âm 23 mẫu tự tiếng Việt vô cùng lộn xộn. Thí dụ: Trên chương trình Thời Sự Quốc Phòng, thiết vận xa M.113 có cô đọc: em mờ 113. Có cô đọc mờ 113. -Chữ N có nơi đọc: en nờ (âm nờ hơi nhẹ). Có nơi đọc nờ.
12/10/2017(Xem: 11547)
Viết về anh Bùi Giáng là một việc làm cần lòng can đảm. Thậm chí cần rất nhiều can đảm, có khi phải nói nôm na là liều mạng mới dám viết. Những người có thời gần gũi và thương mến anh ai cũng có lần cảm nhận điều đó. Anh thích người ta đọc sách anh, thưởng thức thơ văn anh, nghiền ngẫm tư tưởng của anh. Nhưng ngược lại anh hay nổi nóng nếu ai hiểu sai ý anh. Anh rất giận khi có ai viết sai một chữ, kể cả sai một dấu phẩy, những câu thơ của anh. Có rất nhiều khi anh cho đó là một sự xuyên tạc có hậu ý. Dù sao, anh và tôi đã từng sống chung gần ba năm trời ở Vạn Hạnh chả lẽ không có gì để nói, lâu nay tuy rất muốn viết nhưng tôi vẫn cố tránh, cho đến khi có người nhắc.
13/08/2017(Xem: 6639)
Cách đây ít lâu, một nhóm Phật tử tại Hà Nội sang Đài Loan đảnh lễ Pháp sư Tịnh Không, được ngài ban cho một bộ sách gồm 7 quyển, ân cần dặn dò nên tìm người dịch sang tiếng Việt để lưu hành rộng rãi. Bộ sách ấy có tên là Thánh học căn chi căn (聖學根之根), với ý nghĩa là những nền tảng căn bản nhất trong cái học được các bậc thánh nhân từ xưa truyền lại. Sách do cư sĩ Nhân Duyên Sinh tuyển soạn từ kinh sách của cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo, nhằm mục đích hình thành một bộ sách giáo khoa thích hợp và bổ ích nhất cho các em ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]