Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đến với Đạo Phật

06/12/202219:57(Xem: 1899)
Đến với Đạo Phật

phat thuyet phap 2


 ĐẾN  VỚI  ĐẠO PHẬT
Quang Kính Võ Đình Ngoạn



Thuở còn niên thiếu, ông  Sáu đến với đạo Phật không phải vì niềm tin tôn giáo. Cách đây khoảng hơn 6 thập kỷ, chàng thiếu niên tên Sáu ở độ tuổi 15. Anh ta có một người bạn học cùng lớp rũ đi sinh hoạt Hướng Đạo. Sáu được người bạn kể qua chương trình sinh hoạt của đoàn thể nầy, khiến chàng rất thích thú. Bởi những hoạt động ấy Sáu thấy nó thích nghi với bản tính năng động ở độ tuổi thiếu niên đang tràn đầy sức sống của mình.

Sáu mơ ước được dự những cuộc cắm trại  ngoài trời  giửa cảnh thiên nhiên núi non hùng  vĩ, để chàng được hít thở bầu không khí trong lành. Nhất là khi màn đêm từ từ buông phủ, bóng tối bao trùm mọi cảnh vật, đó cũng chính là lúc Sáu cùng  các bạn đang  quay quần bên ánh lửa hồng, lòng nôn nao chờ đợi chương trình sinh hoạt lửa trại khai diễn. Chàng ước mơ tham dự những trò chơi lớn, tìm kiếm báu vật bằng dấu đi đường, mật thư, truyền thông tin bằng ký tự đã mả hóa ( morses ),  chuyển đi bằng còi hay cờ ( semaphore flag ). Sáu mơ được học các gút thường dùng cho những cuộc cắm trại như gút thuyền chài , gút cẳng ngỗng, gút dẹt, tìm hướng đi bằng la bàn ….Những  suy tư, ước mơ của Sáu bổng chốc tan biến, khiến chàng trở về với hiện thực. Khi trống trường vang lên tiếng tùng, tùng,tùng… báo hiệu giờ tan học đã điểm.

Chiều hôm ấy Sáu đi học về, bước vào nhà thấy ba đang ngồi đọc báo. Chàng cất tiếng chào.    

       Thưa ba con đi học về. Rồi Sáu đến chổ ba đang ngồi. Chàng thỏ thẻ thưa

        Thưa ba, con xin phép ba cho con được sinh hoạt  trong đoàn thể Hướng Đạo. Bởi sinh hoạt  trong đoàn thể nầy rất vui ba ạ, vả lại nó giúp cho con trở thành một người tháo vát, giúp con có thể ứng phó trước những khó khăn, bất cập trong cuộc sống. Ba có cho phép không ba ?

Ba Sáu ngừng xem báo. ngẩng đầu lên, ngước mắt nhìn chàng, trầm ngâm  trong giây lát. Rồi ôn tồn, khẻ bảo.

      
Nầy Sáu, ba thiết nghĩ đoàn thể Hướng Đạo không thích hợp cho cơ thể hay đau ốm của con. Bởi Hướng Đạo thường tổ chức những ngày cắm trại ngủ đêm trong rừng núi, khiến con dể bị bịnh  ba không muốn như thế .Ba nghĩ con nên vào đoàn  thể Gia Đình Phật Tử có vẻ thích hợp với thể lực của con hơn. Ba nghĩ  ngoài việc ít đi trại, các môn huấn luyện khác đều  giống bên Hướng Đạo. Vả lại truyền thống dòng tộc chúng ta, đã  bao đời tin theo đạo Phật . Bởi thế con nên đi sinh hoạt Gia Đình Phật Tử để tìm hiểu về tôn giáo của mình, rồi tin tưởng, tu tập  theo giáo pháp của  đức Bổn Sư. Đó cũng là điều ba hằng mong ước.  Từ việc xin đi sinh hoạt Hướng Đạo bất thành, khiến Sáu có duyên lành trở thành đoàn sinh  Gia Đình Phật Tử theo như sự mong muốn của cha mình.


Từ  đó chủ nhật hằng tuần , Sáu đều đến sinh hoạt với đoàn thể Gia Đình Phật Tử tại chùa tỉnh hội, song cũng lắm khi đoàn đến tham quan, sinh hoạt ở các khuôn hội,  hay tổ chức những cuộc cắm trại vui chơi trong ngày… khiến chương trình sinh hoạt trở nên sống động, giúp đoàn sinh thỏa mái, vui vẻ chấp nhận đến với đoàn, đội.  

Thông thường trước khi sinh hoạt, các đoàn sinh tập hợp chỉnh tề trước sân chùa. Anh Lân đoàn trưởng giới thiệu với các bạn, Sáu là một đoàn sinh mới gia nhập. Giới thiệu xong anh bảo các đoàn  sinh từng hàng  từ từ bước vào chánh điện để lể Phật, sám hối theo nghi thức dành riêng cho Gia Đình Phật Tử. Lễ Phật xong,  anh Lân  giao nhiệm vụ cho anh đoàn phó sinh hoạt   đoàn, rồi anh dẫn Sáu vào đàm quán. Hai anh em ngồi vào ghế, anh đoàn trưởng nhỏ nhẹ nói về cư sĩ  Tâm Minh.

       
Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, một trong số các vị sáng lập Hội  An Nam Phật Học. Cụ Tâm Minh luôn luôn nặng lòng ưu tư đến tuổi trẻ. Trong một kỳ họp Đại hội đồng Tổng hội An Nam Phật Học, khi đề cập đến thế hệ thanh thiếu niên. Cụ Lê Đình Thám đã phát biểu “ Không có thành tựu bền vững nào lại không nhắm tới hàng ngũ thanh thiếu niên. Họ là những người tiếp nối chúng ta trong ngày mai “. Bởi thế vào năm 1940 cụ Tâm minh thành lập Đoàn Thanh niên Phật Học Đức Dục.  Sau một thời gian hoạt động. Đoàn Thanh Niên Phật Đức Dục được đổi danh xưng thành Gia Đình Phật Hóa Phổ.  Gia Đình Phật Hóa Phổ là tiền thân của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ngày nay. Mục đích của đoàn thể Gia Đình Phật Tử là đào tạo những thanh thiếu, ấu niên thành những người Phật tử chân chính. Muốn thực hiện được lý tưởng thành người Phật tử chân chính. Chúng ta cần tư duy theo những điều dạy bảo của đức Như lai.

      
Thuở đức Phật còn tại thế, Ngài dạy : Bước đầu đến với đạo Phật, không phải đến để mà tin. Do đó những ai đã đến với Phật giáo nên đến trong tinh thần tìm đọc các kinh sách, nghe những bài giảng về giáo lý nhà Phật. Từ đó ghi chép, tư duy những điều đã nghe , đã đọc để hiểu rõ những lời  dạy bảo ấy. Nếu nhận thấy những điều mình đã đọc, đã nghe các thầy giảng dạy có lợi ích thiết thực cho bản thân, cho gia đình, giúp thân tâm ta an lạc, giúp cho mọi  người được an vui, xã hội  được sống trong cảnh thái hòa, không đau khổ thì hãy thực hành và tin theo những lời dạy bảo ấy. Lời dạy của đức Bổn Sư,  cũng chính là phương pháp tu học theo tinh thần Văn -Tư - Tu. Một trong số muôn vàn Phương pháp tu tập của Phật giáo.

        
Nầy Sáu, hôm nay anh đã nói sơ qua về tiểu sử của Gia Đình Phật Tử Việt Nam, mục đích và hướng đi của đoàn thể nầy. Anh hy vọng rằng trong qúa trình sinh hoạt với đoàn thể. Em sẽ có những nhận định sâu sắc hơn về đạo Phật. Giờ đây hai anh em mình nên ra sinh hoạt chung với đoàn.Trong quá trình đến với Gia đình Phật tử. Sáu nhận định rằng tổ chức Gia Đình Phật tử Việt Nam ngày nay đã thừa hưởng một gia tài quí báu do các bậc Tôn sư, những vị tiền bối sáng lập viên, các huynh trưởng đàn anh đã dày công nghiên cứu chương trình huấn luyện tu học một cách công phu và đầy óc sáng tạo. Các bậc Tôn sư, các vị tiền bối... đã xen lẫn những trò chơi, những lời ca, ý nhạc trong lể nghi sinh hoạt như bài Trầm Hương Đốt, bài Sen Trắng....  Việc đưa văn nghệ, âm nhạc vào chương trình tu học khiến cho ngày tu học trở nên sống động, vui tươi, tình Lam càng thêm lưu luyến như bài Dây Thân Ái .... Trong một cuộc cắm trại nhằm mừng lể chu niên đoàn. Chương trình trại có tiết mục trò chơi lớn đi tìm kho báu. Trò chơi nầy cho đến nay vẫn còn in đậm trong ký ức, một kỷ niệm khó quên, khiến ông Sáu vẫn còn ghi nhớ. Sau giờ nghĩ trưa khoảng 30 phút. Bổng hồi còi vang lên báo hiệu giờ sinh hoạt bắt đầu. Các đoàn sinh lanh lẹ tập họp trước lều Ban Quản Trại. Sau khi các đoàn sinh tập họp chỉnh tề. Anh đoàn trưởng bảo.

        
Các đoàn sinh thân mến, hôm nay anh muốn các em ôn lại những chuyên môn mà các em đã học hỏi được, bằng trò chơi  tìm báu vật. Anh hy vọng các đội Sen Trắng, Sen Vàng, Sen Nâu, Sen Tím  hảy cố gắng thi đua trong tinh thần đồng  đội. Kế đến anh Lân đưa cho mổi đội trưởng một mật thư chỉ dẫn hướng đến trạm truyền tin. Tại đây, các đội sẽ nhận được tín hiệu bằng cờ để đến nơi có dấu đi đường dẫn tới chổ chôn dấu. Kết qủa trò chơi, đội Sen Nâu đã lấy được báu vật. Bởi thế các đội lần lượt trở về tập hợp trước lều Ban Quản Trại. Đội trưởng Sen Nâu trình lên đoàn trưởng một túi vải màu vàng. Anh Lân thò tay vào túi vải lấy ra một mảnh giấy có viết chử, anh khẻ nhìn rồi đọc to dòng chữ ấy “ Phàm làm việc gì, trước phải xét kỷ đến hậu quả của nó “ Kế tiếp, anh gọi đội trưởng Sen Nâu lên nhận giải thưởng cho đội. Phần thưởng được trao là  quyển truyện Bài Học Ngàn Vàng của cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa. Rồi anh bảo:

      
 Các em thân mến, để biết được giá trị đích thực nội dung của câu viết.  Ngay từ giờ phút nầy, anh muốn đội trưởng Sen Nâu đọc câu truyện Bài Học Ngàn Vàng.  Từ đó các đội cùng nhau nghiên cứu, tìm hiểu, đúc kết nội dung chính yếu rồi đàm thoại,đưa đến kết luận. Đội Sen Nâu thắng cuộc, do đó đội trưởng đội nầy được vinh dự làm chủ tọa buổi đàm thoại.

Thuở xưa, tại Tân Cương  thuộc vùng  Trung  Á có một tiểu vương quốc tên là Nhục chi nằm giửa Ấn Độ và Trung quốc. Vua Đột Quyết trị vì vương quốc nầy. Nhân một lần đi săn trở về hoàng cung. Đoàn xa giá nhà vua đi ngang qua một chợ phiên gần kinh thành. Tại phiên chợ có ông lão đang rao bán Bài Học Ngàn Vàng, nhà vua đã mua bài học nầy. Vừa  về đến cung điện, vua Đột Quyết vội vào ngự phòng, nhà vua mở túi gấm ra xem bài học ấy như thế nào? Nhưng nhà vua thật thất vọng, bởi bên trong túi gấm chỉ có vỏn vẹn một mảnh giấy với dòng chử viết thật đẹp như rồng bay phượng múa  “ Phàm làm việc gì, trước phải xét kỷ đến hậu quả của nó “. Ngài nghĩ rằng mình bị lừa phỉnh. Địa vị là một đấng quân vương đầy quyền uy, nhưng lại bị một lão già trong dân giả lường gạt, thật không có gì đau khổ và hổ thẹn bằng. Vua Đột quyết vô cùng  tức giận. Nhà vua sợ có người đọc được dòng chữ nầy nên vội bỏ bài học vào tủ cẩm thạch khóa lại.  Ngay tối hôm đó, nhà vua truyền lệnh quan đề đốc Thanh Phong là người thân tín của mình vào chầu. Sau khi nói rỏ sự việc, ngài truyền chỉ cho quan đề đốc nội trong một tuần phải tìm cho ra tung tích lão già, bắt đem về trị tội. Bởi để lâu lão sẽ trốn qua nước Quế Lâm, nước láng giềng có chung biên giới.


Hầu truy tìm tung tích ông già. Việc đầu tiên,  đề  đốc Thanh Phong  cho dán yết thị có hình ông lão, trong yết thị với nội dung:  nhà vua thấy bài học ngàn vàng rất có giá trị nên muốn thưởng thêm. Nếu đọc được yết thị, ông lão có thể đến bất cứ cơ quan địa phương nào để lảnh thưởng, hoặc có ai nhìn thấy ông lão đến báo cho quan phủ,huyện sở tại. Mặc khác quan đề đốc ra lệnh cho binh sĩ canh gác các cửa thành phải kiểm tra nghiêm ngặt từng người để nhận diện. Ngoài ra Thanh Phong còn ra lệnh cho các toán lính ban đêm đến các khách sạn, nhà dân  gõ cửa kiếm tra kẻ lạ đến trú ngụ… thời hạn một tuần gần kề, song hành tung ông lão vẫn biệt tâm, biệt tích. Rồi một đêm vua Đột Quyết truyền quan đề đốc vào ngự phòng để hỏi chuyện.

      
Nầy đề đốc Thanh Phong. Công việc truy tìm lão già khanh đã có manh mối gì chưa ?  Trẩm muốn sự việc nầy kết thúc sớm.

     
Muôn tâu Bệ Hạ.  Thần đã tận dụng nhiều phương cách để truy tìm tung tích lão già, song vẫn “ biệt vô âm tính ”. Thần thiểm nghĩ sau khi lừa phỉnh Bệ hạ lấy được ngàn vàng. Lão đã “  cao bay, xa chạy “, khiến hạ thần bất lực.

 Vua Đột Quyết khi nghe mấy chữ “ lừa phỉnh Bệ hạ lấy được ngàn vàng “ khiến vết thương trong lòng bộc phát. Ngài đùng đùng nổi giận, cho rằng quan đề đốc đã khi quân, phạm thượng liền hạ lệnh bắt giam quan đề đốc vào ngục thất.  Nhà vua thầm nghĩ, quan đề đốc đã biết chuyện, nếu để rò rĩ khiến kẻ khác biết được việc vua bị lừa gạt, thật là  điều hổ thẹn cho đấng quân vương. Vua Đột Quyết nổi lên ý định giết chết quan đề đốc để mãi mãi  không còn ai biết đến câu chuyện nầy nữa.Nhà vua hạ lệnh cho Thanh Phong uống chén độc dược. Sáng hôm sau, khi các quan văn vỏ chầu trước điện. Quan Thái giám tuyên đọc thánh chỉ với nội dung đề đốc Thanh Phong mưu phản, đang đêm lẻn vào hành thích vua nên đã bị giết. Thạnh Bảo con đề đốc Thanh Phong, một tướng trẻ đang trấn thủ tại biên thùy giáp ranh với Quế Lâm. Thạnh Bảo không tin cha mình đã làm việc phản nghịch, nhưng với tội phản nghịch, chàng cũng khộng thể nào thoát chết. Do đó chàng  sai kẻ thân tín mang thư qua Quế Lâm cầu viện. Mặc khác, Thạnh Bảo tức tốc kéo quân về kinh đô hỏi cho ra lẻ. Sự việc xãy ra quá đột ngột ngoài dự phòng của vua Đột Quyết. Kinh thành bị bao vây, quân lính trong thành không đủ sức chống cự. Nhà vua cùng quần thần đào thoát ra ngoài bằng một đường hầm bí mật đi về hướng lão tướng Hoàng Cái đang trấn giữ. Khi biết tin vua và các quần thần đào tẩu, dân chúng mở cửa nghênh đón Thạnh Bảo vào thành. Việc đầu tiên, Thạnh Bảo đến ngự phòng phá tủ cẩm thạch để lấy châu báu. Song trong tủ trống trơn, chỉ có mảnh giấy ghi dòng chữ “ Phàm làm việc gì, trước phải xét kỷ đến hậu quả của nó “. Thạnh Bảo nghĩ rằng trước khi trốn chạy nhà vua muốn cảnh cáo chàng. Thạnh Bảo lại nghĩ hay đây là một lời khuyên răn. Nếu thế sao nhà vua không theo lời khuyên nên xãy ra cớ sự. Cuối cùng chàng cho rằng đó là một câu viết vớ vẩn nên xé nát.


Vua nước Quế Lâm nhận được thư cầu cứu của Thạnh Bảo, nhà vua cho rằng đây là cơ hội để mình xâm chiếm nước Nhục Chi. Bởi thế nhà vua vội sai tướng Tùng Sơn thống lảnh 10 vạn binh tràn sang biên giới với danh nghĩa giúp Thạnh Bảo diệt trừ ông vua vô đạo, giết hại công thần. Tùng Sơn đi đến đâu đều trưng thu lương thực của dân, không những thế binh lính còn ức hiếp dân lành. Do đó dân chúng càng ngày càng  oán hận Thạnh Bảo đã “ rước voi về  giày mã tổ “, Thạnh Bảo lại có tính cao ngạo, độc tài khiến quần chúng càng thêm xa lánh. Ngược lại, lão tướng Hoàng Cái hộ giá nhà vua, lại có công xông pha chiến trận chống lại ngoại xâm nên người người hưởng ứng. Bởi thế một thời gian ngắn, lão tướng đã quét sạch bóng quân thù. Tướng quân Hoàng Cái dẫn quân về chiếm lại Kinh đô. Thạnh Bảo bị bắt chờ ngày xử trảm. Ngày hành quyết đã đến, vua Đột Quyết đến gần Thạnh Bảo cất tiếng

       
Thạnh Bảo, ta ban cho ngươi một ân huệ. Trước khi chết ngươi có cần nói điều gì không?

      
Thạnh Bảo nghĩ “ được làm vua, thua làm giặc “. Nay Thạnh Bảo đã thua, bị trảm không có gì oán hận.Nhưng  ta chỉ ân hận một điều đã không làm theo lời khuyên viết trên mảnh giấy nằm trong tủ ngọc thạch “ Phàm làm việc gì, trước phải xét kỷ đến hậu quả của nó “.

Vua Đột Quyết sững sờ trong giây lát. Màn kịch Bài Học Ngàn Vàng lại hiện về trong trí óc. Nhà vua truyền lệnh đao phủ ngưng hành quyết. Ngài tha tội cho Thạnh Bảo. Lão tướng Hoàng Cái được tin vôi vả vào cung xin diện thánh để trình bày nổi lo ngại của mình. Sau khi được vua kể lại câu chuyện mua bài học ngàn vàng, dẫn đến việc giết quan đề đốc nên rất ân hận. Lão tướng công nhận bài học rất hữu ích. Hoàng Cái tâu vua nên treo bài học ngàn vàng khắp nơi trong hoàng cung.  


Nói về vua Quế Lâm. Sự kiện 10 vạn binh do lão tướng Tùng Sơn thống lỉnh bị đánh tan tác phải  rút về nước, khiến nhà vua ôm mối hận trong lòng. Vua Quế Lâm định đem quân sang đánh báo thù thì được tin mật báo vua Đột Quyết đang bịnh nặng. Nhà vua  truyền chỉ cho vị tướng đang đóng tại biên ải  tìm cách liên lạc, mua chuộc quan ngự y đầu độc  vua Đột Quyết. Đối với quan ngự y, do lời hứa sẽ được một phần giang  sơn nước Nhục Chi, được cưới một tiểu thư giàu đẹp của xứ người nên đã bỏ độc dược vào chén thuốc dâng lên cho vua uống, nhưng khi ngước mắt lên, nhìn thấy bài học ngàn vàng treo nơi vách nên hoảng hốt tâu chén thuốc có độc. Vua Đột Quyết vô cùng hoảng sợ mồ hôi thoát ra như tắm, nhờ thế bệnh tình của vua cũng hết hẳn, ngài bằng phán hỏi lý do quan ngự y muốn giết mình. Quan ngự y trình bày sự việc khiến mình mang tội. Nhà vua  tha tội cho quan ngự y. Ngược lại thứ phi Hoàng Hoa sống cảnh cô đơn lẻ bóng nơi Tây cung nên nẩy lòng tư thông cùng quan đại thần Lý Bá nên đã mang thai. Để cho thai nhi không ai phát hiện. Lý Bá và Hoàng Hoa cấm các cung nữ tiết lộ sự việc, nếu không sẽ bị xử phạt nặng nề, khiến không một cung nữ nào dám tố giác. Rồi Tây cung nổi lên bất ổn, bởi thứ phi  trở nên  điên loạn, đập phá lung tung. Ngay cả những vật dụng có ghi bài học ngàn vàng. Lý Bá nghĩ rằng thứ phi Hoàng Hoa bị tà ma quấy phá, do đó tâu vua nếu trị bệnh tà nên mời pháp sư Lý Mậu, người có tài trị  được bệnh nầy. Nhà vua chuẩn tấu, truyền Lý Mậu vào chửa trị cho thứ phi. Lý Mậu tâu, muốn việc trị bệnh được hiệu quả. Tây cung cần sự yên tỉnh, nên pháp sư thỉnh cầu các quan lại, vua, hoàng hậu, các thứ phi không đến thăm viếng trong thời gian  Lý Mậu trị bệnh cho Hoàng Hoa. Sự việc xãy ra ở Tây cung, khiến lão tướng Hoàng Cái thấy có điều không ổn. Thứ Phi có  điên hay không?  Chỉ có thái y mới chẩn đoán được. Chưa gọi thái y chẩn đoán bịnh mà Lý Bá đã vội cho là bị tà, khiến Hoàng Cái đặt nhiều nghi vấn nên âm thầm theo dõi. Rồi nhân một lần đến Tây cung. Cung nữ gác cửa bên ngoài không cho vào nên giử lại tra hỏi . Do đó lão tướng biết được Lý Bá và Lý Mậu ban đêm khoảng canh 2 thường ra vào Tây cung bằng địa đạo bí mật được che dấu bằng tấm hoành phi to lớn. Hoàng Cái mai phục bắt ngay tại trận.

Trên đây chỉ là phần tóm lược cốt truyện. Ngoài chuyện quan ngự y, thứ phi Hoàng Hoa còn có nhiều truyện khác như vụ án ông Tổng Hàm giết  thị Nguyệt , bà Năm cây thị là một gian thương,…. Tất cả các vụ án đều  nhằm mục đích nêu lên giá trị, sự ích lợi của Bài Học Ngàn Vàng. Ông Sáu rất thú vị, từ một trò chơi lớn, anh đoàn trưởng  khéo léo hướng dẫn các đoàn sinh đến cuộc đàm thoại về Phật Pháp theo phương  pháp Văn – Tư – Tu để đưa đến kết luận câu viết quả thật là bài học  vô giá. Đó  chính là Chánh kiến, chi đầu trong bát chánh đạo. Tám Con đường dẫn dắt chúng ta đến đời sống  an lạc. Do đó những hành giả khi đã phát nguyện:

            “… Con nhất tâm nguyện sống đời lành  

            Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo

            Lên thuyền Từ vượt qua biển Khổ

             Cầm đuốc thiêng ra khỏi rừng Mê ...”

Ông Sáu thiểm nghĩ,  những hành giả trong bước đầu học Phật cần hành trì theo câu kinh:         

            “… Văn, Tư, Tu xin quyết hành trì 

            Thân miệng ý noi về chánh kiến… “


Đó cũng chính là con đường đưa chúng ta đến cứu cánh vượt thoát bến mê, quây về bờ giác.

                                    

MaryLand, 12/2/2022

 

 

     

 

 

         

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7675)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3556)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3512)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11250)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3974)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3459)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10824)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6824)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12796)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4348)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]