Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nước Mắt Đàn Ông

05/09/202217:47(Xem: 3065)
Nước Mắt Đàn Ông


nuoc mat dan ong 2


Nước Mắt Đàn Ông





Theo truyền thuyết, tạo hóa sinh ra đàn bà từ một dẻ sườn của người đàn ông và ban tặng họ cả gia tài khổng lồ đó là những giọt nước mắt của suối nguồn yêu thương, đau khổ. Đàn bà khóc là chuyện bình thường. Còn đàn ông, liệu họ có bao giờ rơi nước mắt? Nhân gian quan niệm đàn ông thường gắn liền với bản lĩnh cứng cỏi, sự lạnh lùng vô cảm. Không! Đàn ông cũng biết khóc, cười bởi họ cũng là con người có trái tim. Chỉ có điều nước mắt đàn bà trào qua bờ mi thì nước mắt đàn ông lại chảy ngược vào tim.

Tôi đã hơn một lần chứng kiến nước mắt đàn ông rơi.

Cha tôi khóc, ngày mẹ buông tay cha con tôi đi theo một người đàn ông khác, mẹ mải mê kiếm tìm ảo ảnh hạnh phúc ở chân trời xa lắc mà quên đi tổ ấm bình yên. Ngày ấy, cha câm lặng như một pho tượng bằng đá, bàn tay thô ráp của cha cầm cái rựa chém mạnh vào cây chuối sau vườn nhà, thân chuối đứt đôi như duyên nợ của cha mẹ tôi gãy làm đôi mảnh. Lưỡi dao sắc ngọt chém toạc bóng đêm, chém rách ngọn gió đông gầy, chém toạc lời thề đá vàng tào khang. Tôi sợ hãi ôm lấy cha, hét lên: “ Cha ơi, cây chuối mẹ trồng đó! Nó ra hoa rồi kìa!”. Nghe câu nói ngây thơ của tôi, cha cười đắng ngắt: “cảnh còn, người mất, tiếc chi con!”. Đêm ấy, nằm bên cha, tôi thao thức, nghe hai hàm răng cha nghiến mạnh để không bật ra tiếng khóc nhưng tôi vẫn cảm nhận được những giọt nước mắt mặn mòi của cha chảy ngược vào tim, tim cha buốt nhói, cha trằn trọc, tiếng thở dài kẽo kẹt nhịp chõng tre. Nhiều ngày sau đó, cha lầm lũi làm việc, đêm khuya, cha mượn cút rượu cuốc lủi có cái nút lá chuối khô tìm quên. Những lúc ấy, mắt cha đỏ ngầu, cổ họng cha phát ra những tiếng khô khốc tựa lời nguyền cay độc. Khi ấy, tôi chẳng hiểu cha cười hay khóc nữa, nếu có cười thì cũng ra nước mắt mà thôi. Rồi cha nhìn trăng, ngâm ngợi đôi vần thơ chua chát:

“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ.”

Tôi cảm nhận được vết thương trong lòng cha sâu hoắm như một cái hố. Và tôi biết cha còn thương mẹ rất nhiều. Thương và hận đã vò xé con tim rớm máu của cha. Những tháng ngày ấy, cha tôi nước mắt chan cơm vơi đầy.

Gà trống nuôi con, cha quyết chí nuôi tôi ăn học. Kỳ thi đại học đến, cha con tôi khăn gói quả mướp lếch thếch đưa nhau lên thủ đô. Lần đầu tiên cha tôi xỏ đôi dép, đôi dép tổ ong mới đổi của bà lông ngan, lông vịt không che hết những ngón chân thô kệch lam lũ thò ra. Nhìn bộ dạng quê mùa, lớ ngớ của cha con tôi, bọn xe dù, bến cóc thi nhau chào mời. Cha con tôi bị bán khách đến vài ba lần, vẫn phải đi bộ hàng cây số mới hỏi thăm đến trường thi. Mỗi lần trả tiền xe, cha ngậm ngùi cởi bọc tiền được gói cẩn thận trong cái áo bộ đội đã sờn, còn tôi ấm ức, bức xúc với thái độ chém chặt, lừa gạt khách. Tôi lầm bầm: “ Cuộc sống thành phố thật phức tạp.”. Sợ tôi nản chí, ảnh hưởng việc thi cử, cha gượng cười: “ Lần đầu cha con mình lên đây, như vậy cũng rút ra bài học, đi một ngày đàng học một sàng khôn đó con.”. Sau khi thuê phòng trọ thi cho tôi tại kí túc xá, cha đưa tôi vào căng tin ăn cơm, nhưng cha chỉ mua một suất. Tôi ngạc nhiên hỏi, cha nói rằng hẹn gặp một người quen ăn cơm cùng họ. Tôi hồn nhiên tin ngay mà đâu hay cha lặng lẽ ăn cơm nắm, muối vừng dưới gốc cây. Đêm xuống, cha nói với tôi vào ngủ nhờ nhà người quen. Nào ngờ, sáng ra, lạ nhà, không ngủ được, tôi lang thang ra hành lang, giật mình phát hiện cha đang nằm ngủ ở ghế đá trong khuôn viên. Đến bên cha, tôi nghẹn ngào khóc nấc: “ Mình về thôi cha, con không thi nữa!”. Cha choàng tỉnh, an ủi tôi: “ Bố cô! Tôi ngủ đây mát như đàn, sao nào. Cực bao nhiêu cha cũng lo cho con học, phải học mới mở mặt ra được con ạ! Như cha đây, thất học, bất tài nên mẹ con bỏ cha...”, mắt cha nhìn xa xăm, còn tôi lại hun đúc quyết tâm khoa bảng. Sau mỗi buổi thi, cổng trường đông nghịt phụ huynh chờ con với tâm trạng hồi hộp. Giữa những chiếc xe hơi sang trọng nối đuôi nhau cùng dòng người mặt hoa da phấn, tôi nhận ra cha với chiếc áo bạc màu, cái quần quăn tít như lò xo cùng bộ dạng hớt hải, cha cầm cái mũ cối vẫy tay ra hiệu cho tôi khiến tôi không cầm được nước mắt. Tôi hoàn thành bài thi rất tốt, cha vui lắm, nhìn thiên hạ đưa rước con bằng xe hơi, cha ngậm ngùi: “ Cha bất tài nên con thiệt thòi!”. Tôi ôm lấy cha thầm thì: “Cha là người đàn ông vĩ đại nhất trong mắt con!”, cha cười mà mắt đỏ hoe: “ Bố cô! Lẻo mép!”.

Một ngày đẹp trời, cha đang cào thóc phơi bỗng có tiếng xe đạp “kính coong” của anh bưu tá đưa thư. Tôi trúng tuyển đại học. Hình như cha mừng hơn cả tôi, cầm phong thư có dấu đỏ chót của trường đại học trên tay, cha vỗ tay vào đùi đánh đét rồi quýnh quáng chạy khoe khắp xóm. Bà con ai cũng mừng cho cha con tôi.

Lần thứ hai cha khóc, ấy là ngày tiễn tôi đi học đại học. Ngồi trên chuyến xe liên tỉnh duy nhất trong ngày, tôi ngoái đầu nhìn lại, trong làn khói bụi, cha đứng đó, hanh hao gầy, mắt cha rưng rưng. Bóng cha loang lổ trong hoàng hôn nhạt nắng Tôi lên thành phố để lại trong cha cả trời thương nhớ, cả nỗi cô đơn vò võ. Cuộc sống phồn hoa chốn đô hội khiến tôi lạc lõng, thương nhớ cha nhiều hơn. Cha viết thư dặn dò tôi phải chăm chỉ học, không cần về nhà nhiều, dồn thời gian mà học, cần gì cha sẽ gửi cho. Thương cha, tôi chăm chỉ học hành, giành được học bổng cao nhất.

Nghỉ Tết, tôi háo hức mua sắm đồ trở về quê, không quên mua biếu cha một bộ quần áo mới bằng tiền học bổng của mình. Lặng lẽ về, không báo trước để tạo sự bất ngờ cho cha, bước chân vào khoảng sân vắng, tôi nghẹn lòng bắt gặp hình ảnh cha cặm cụi ngồi gói bánh chưng với đôi bàn tay vụng về, lóng ngóng. Việc này, bao năm rồi mẹ tôi vẫn làm. Cha gầy hơn, đôi mắt trũng sâu hơn. Chạy lại bên cha, tôi nghẹn ngào: “ Con nhớ cha quá!”, chiếc lá dong trên tay cha rơi xuống, cha mừng rỡ ngắm nghía tôi từ đầu đến chân, vẫn câu nói quen thuộc mà ghim tạc vào lòng tôi ngọt ngào: “ Bố cô! Lớn rồi mà như con nít! Liệu mà học, đừng có yêu đương tí tởn, cha gọt đầu bôi vôi nghe con!”. Những ngày Tết thật đầm ấm biết bao, tiếng nói cười rộn rã của tôi dệt thành những sợi nắng hồng sưởi ấm cuộc đời u buồn, ngang trái của cha dẫu những ngày ấy thật ngắn ngủi.

Tốt nghiệp đại học với tấm bằng đỏ, tôi dễ dàng kiếm được một công việc như mơ. Rồi tôi đẹp duyên với một chàng trai Hà thành gia giáo, tài ba. Cuộc đời như trải thảm cho tôi đi. Không! Đúng hơn là cha tôi đã dùng sự lam lũ, cay đắng đời mình để đệt thảm cuộc đời tôi. Cha đã nuôi tôi thành người bằng những đồng tiền lấm lem, chiu chắt một nắng hai sương. Cha đã oằn lưng cơ cực để con đường tôi đi thẳng tắp. Cha đã dùng giọt nước mắt đời mình để tô hồng nụ cười trên môi tôi. Ngày tôi lên xe hoa theo chồng, tôi đâu hay cha đã khóc thật nhiều mặc dù cha cố tỏ ra cứng rắn vì không muốn tôi buồn trong ngày hạnh phúc nhất cuộc đời. Ngoái lại, tôi bắt gặp hình bóng liêu xiêu, gầy guộc của cha thẫn thờ nhìn xác pháo tung bay rợp bờ sông đỏ nắng. Đưa tay vẫy chào tôi, cha khóc, nước mắt lăn dài trên gò má sạm màu nắng gió. Bộ quần áo mới toanh, sang trọng tôi sắm cho cha không khiến cha lột xác, nó mâu thuẩn , đối lập thê thảm với bộ dạng khắc khổ của cha.

Làm dâu xứ người, nỗi nhớ thương cha cồn cào trong tôi. Mỗi khi ngồi quây quần bên mâm cơm gia đình chồng cùng bàn ăn thịnh soạn, tôi lại thắt lòng, quay quắt nghĩ đến cha đơn chiếc bên cái mâm gỗ cùng vài quả cà muối hẩm, rau muống chấm tương. Tết đến, xuân về là lúc tôi nhớ cha nhiều hơn. Được cái mẹ chồng tôi là người hiểu biết, cảm cảnh cha tôi hiu quạnh, bà mua sắm quà Tết rồi cho vợ chồng tôi về quê ăn tết với cha. Tôi mừng rơi nước mắt. Ba Mươi Tết, vợ chồng tôi đánh xe hơi về quê. Không khí ngày xuân khiến xóm làng tưng bừng, rộn rã. Nhà nhà quây quần, đầm ấm bên mâm cơm tất niên sum vầy. Bước chân vào ngõ, lòng tôi quặn thắt nhìn ngôi nhà hiu quạnh, buồn tênh không chút sắc khí ngày xuân. Nép sau cây rơm, tôi lặng lẽ quan sát cha. Thân hình khắc khổ của cha lọt thỏm trong tấm áo bông huyền thoại, ngọn gió mãn đông tàn nhẫn rít gào từng cơn tê tái. Hình ảnh cha khoảnh khắc ấy đóng đinh trong lòng tôi nhức buốt. Ba Mươi tết, cha đơn chiếc, vò võ một mình. Ba Mươi Tết, cha cặm cụi, thui thủi bên chái bếp làm cơm cúng tổ tiên. Bàn tay gầy guộc của cha lóng ngóng đơm xôi, cái bánh chưng bóc vụng miếng to, miếng nhỏ, đỗ, thịt thò cả ra ngoài. Tiếng nói cười rôm rả bên nhà hàng xóm vọng lại khiến cha ngước mắt, rồi cha nhìn xa xăm như kiếm tìm điều gì đó và...một giọt nước mắt mặn mòi từ từ lăn xuống khuôn mặt khắc khổ, in hằn bao cay đắng. Không thể kìm lòng được nữa, tôi chạy đến ôm chầm cha nức nở như con nít bị đòn oan: “ Cha ơi, con về với cha rồi đây!”. Cha tôi sững sờ: “Các con về sao không báo cha? Cúng tất niên xong, mau về trên đấy ăn Tết với ông bà.”. Tôi vẫn nghẹn ngào: “Không, vợ chồng con sẽ ăn tết với cha.”. Cha lặng người, ái ngại: “Thế sao được, con gái lấy chồng phải chu toàn việc nhà chồng. Cả năm có ba ngày tết, các con phải về sum họp kẻo lỗi đạo dâu con.”. Chồng tôi cay cay khóe mắt, ôm choàng cha: “Là mẹ con bảo chúng con về đó cha.”. Đúng lúc ấy có chuông điện thoại của mẹ chồng tôi gọi chúc tết cha tôi, bà nói rằng trên đó còn có các anh, chị nên vợ chồng tôi cứ yên tâm ăn tết ở quê cùng cha. Cha mừng ra mặt, vụng về nói lời cảm ơn và chúc tết bố mẹ chồng tôi.

Một ngày, dì ruột tôi báo tin mẹ tôi bệnh nặng, đơn chiếc một mình không ai chăm sóc. Người đàn ông dụ dỗ mẹ tôi đã bỏ bà ra đi khi “Con ong đã tỏ đường đi, lối về”, khi hoa tàn, nhụy rữa xuân thì nhạt phai. Nghe tin ấy, lòng tôi lạnh lùng, dửng dưng lạ! Tôi thầm nghĩ phải chăng đó là quả báo mà bà đã tự gieo, gặt. Nhưng dì tôi nói đúng, dẫu oán giận bao nhiêu thì tôi vẫn là giọt máu mà mẹ đã mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, thâm tình đâu dễ dàng rũ bỏ. Tôi quyết định thông báo với cha tin này. Mặt ông tím bầm lại giận dữ hệt như cái ngày mẹ bỏ đi, ông hét lớn: “Đừng nhắc tới người đàn bà tệ bạc ấy trước mặt cha. Coi như bà ấy đã chết rồi.”

Vậy nhưng nước mắt cha tôi vẫn rơi tiếp. Ấy là ngày cuối đời của mẹ, cha bất ngờ xuất hiện. Mẹ thều thào nói lời tạ lỗi với cha con tôi trong hơi thở gấp gáp. Cha khóc nghẹn: “Bà dại lắm! Sao lại để mình ra nông nỗi này? Bà có biết tôi vẫn đợi bà trở về từng ngày không? Có kiếp sau, bà vẫn phải trả nợ cha con tôi. Tôi đưa bà về nhà mình nhé!”. Thì ra cha vẫn yêu mẹ nhiều lắm, tình yêu và hận thù làm héo hon con tim cha. Mẹ tôi cười thanh thản, nhẹ lòng, hai tay mẹ run rẩy chới với nắm tay tôi và cha, giọt nước mắt của cha và mẹ hòa vào nhau trên đường giao định mệnh. Mẹ trút hơi thở cuối cùng. Cha tôi lại lặng lẽ lo ma chay cho mẹ, khuôn mặt cha thêm nhiều nếp nhăn hơn, đôi mắt ông trũng sâu hơn. Mỗi ngày cúng cơm cho mẹ, nước mắt cha lại chảy ngược vào tim. Tôi biết!

Khi nước mắt đàn ông rơi, ấy là tột đỉnh của niềm hạnh phúc!
Khi nước mắt đàn ông rơi, ấy là tột cùng của sự khổ đau!
Cha tôi... đã khóc một đời!
Đi qua ngày của cha.
Từ FB Anh Phan








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2014(Xem: 18221)
Trên chuyến bay từ Paris đến Reykjavik, thủ đô Iceland, tôi không khỏi mỉm cười khi thấy trên màn hình giới thiệu du lịch có những từ “mindfulness” (chánh niệm), “meditation” (thiền), “here and now” (bây giờ và ở đây). Hôm trước cũng nghe một thiền sinh ở Làng Mai (LM) chia sẻ rằng cô thích thú khi nghe một nữ tiếp viên hàng không nói với khách: “Please have mindfulness to bring your luggage down…” (xin chánh niệm khi đưa hành lý xuống…). Thiền tập đã đi vào đời sống người châu Âu đến vậy, có phần ảnh hưởng khá lớn của LM.
16/11/2014(Xem: 4286)
Vẫn biết rằng ai sinh ra cũng có một quê hương để yêu dấu, để gắn bó, để tưởng nhớ khi chia xa. Tuy nhiên tôi luôn luôn có cảm nghĩ là người Huế sống và bộc lộ tình quê hương mãnh liệt hơn bất cứ người dân vùng nào khác chăng?
03/11/2014(Xem: 52998)
Theo truyền thống Tăng Già, hằng năm chư Tăng Ni đều tụ về nhóm họp một nơi kiết giới an cư, hầu thúc liễm thân tâm, trau dồi Giới, Định, Tuệ là ba môn vô lậu học, tăng trưởng đạo lực sau những tháng ngày bận rộn hoằng pháp lợi sanh. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi –Tân Tây Lan được thành lập năm 1999, mỗi năm đều qui tụ tại một trú xứ được chọn trước để an cư tu tập trong mười ngày. Năm nay Đạo tràng Tu Viện Quảng Đức chúng con được Hội Đồng Điều Hành và Tổng Vụ Tăng Sự giao phó trách nhiệm tổ chức Mùa An Cư lần thứ 15 của Giáo Hội. Đạo Tràng chúng con đã thỉnh ý Chư Tôn Giáo Phẩm trong Giáo Hội và quý Ngài đã đồng thuận tổ chức kỳ An Cư Kiết Đông năm nay tại Tu Viện Quảng Đức theo ngày giờ như sau:
02/11/2014(Xem: 3913)
Thời gian trôi xa nay đã hơn 7 mùa trăng thu lồng lộng duới bao lớp huyền suơng nơi xứ nguời (từ năm 2006-2014) Tuy nhiên, nhìn lại chỉ còn là một thoáng như bóng mây qua cửa, như dòng nuớc có khi thanh thản, có lúc nặng nề vẩn đục lặng lẽ trôi và trôi xa.
01/11/2014(Xem: 18804)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơn nữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạo pháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhau nhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài. Tuy chúng nói lên rất ít ỏi, nhưng không vì thế mà chúng không mang lại cho chúng ta một cái nhìn chính xác và rõ ràng hơn về cuộc đời của Ngài và, cũng từ đây chúng ta mới thấy rõ được chân dung của một bậc Thầy vĩ đại qua chí nguyện kiên cường của Ngài trong việc “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.”
30/10/2014(Xem: 3453)
Suốt bao năm dài lưu vong nơi xứ người, tôi đã trăn trở, khắc khoải nhớ thương Huế - nơi tôi đã sống những ngày bình yên và thanh thản với tất cả tấm lòng ngây thơ của người con gái mới lớn. Hình ảnh Huế đẹp và thơ đã hiện về thường xuyên như một nhắc nhở trong tâm tưởng, trí nhớ, giấc ngủ và cơn mơ của đời tôi ! Huế mãi mãi vẫn là một vùng thánh địa thiêng liêng, bất khả xâm phạm trong góc sâu thăm thẳm của trái tim tôi. Kỷ niệm về tuổi trẻ vô tư, người tình đầu đời, bạn bè thân ái, những chốn hẹn hò rong chơi, ngôi nhà cũ, mái trường hồng vôi tím, những con đường đầy bóng mát từng chứng kiến cảnh gặp gỡ đầy yêu thương.
27/10/2014(Xem: 14490)
Hạ tuần tháng mười vừa qua, HT Thích Như Điển Phương trượng chùa Viên Giác về hướng dẫn khóa tu Bát Quan Trai Giới tại tỉnh Reutlingen. Nhân dịp nầy, Thầy mang quà tặng về cho Phật tử địa phương, đó là tác phẩm thứ 63 của thầy với tựa đề: “Hiện Tượng của Tử Sinh”. Đồng thời thêm một quà tặng của Bào huynh thầy: Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” của Song Thu (Bút danh của HT Thích Bảo Lạc). Chúng con xin cung kính đảnh lễ và cảm niệm Công đức của nhị vị Ân Sư. Cũng như xin trân trọng những tấm lòng từ bi đối với tha nhân qua những lời nguyện ước. Như người làm từ thiện chỉ biết cho, với cái tâm mong cầu mọi người đón nhận sự hỷ lạc:
09/10/2014(Xem: 13357)
Nói thiệt, tôi chẳng biết ông Lê Hựu Hà nghĩ gì khi viết bảy chữ này. Nhưng tôi đã xem đó như một đề nghị rất Phật giáo. Tôi chưa hề là một thiền sinh nghiêm túc, nói gì là thiền sư. Tôi chỉ là kẻ lãng du trong cõi Phật pháp và thỉnh thoảng ghé chơi dăm khu vườn văn nghệ như một cách nghỉ chân. Và chính bảy chữ đó của người nhạc sĩ họ Lê từ lâu đã là một khẩu quyết cho tôi những khi nghe, đọc, ngắm nhìn cái gì đó tình cờ bắt gặp. Chẳng hạn tôi đã yêu ca dao Việt Nam từ những lời rất lạ.
06/10/2014(Xem: 16261)
Thông thường, trong một tác phẩm văn học nghệ thuật, lời Tựa mở đầu bao giờ cũng được tác giả tự bộc bạch, thổ lộ, diễn bày rất cẩn trọng dài dòng, để người đọc dễ lãnh hội sâu vào nội dung tác phẩm đó, nhưng với Triều Nguyên thì lại hoàn toàn khác hẳn, khi viết Tựa cho tập thơ đầu tay Bay Đi Hạt Cát của mình, thi sĩ chỉ có một câu duy nhất, thật vô cùng giản dị : “Sa mạc buồn thương hạt cát bay đi…” Giản dị đơn sơ mà độc đáo, thể hiện một cốt cách đặc thù riêng biệt trên con đường sáng tạo, ngao du qua những phương trời ngôn ngữ thi ca quá mộng dập dìu.
01/10/2014(Xem: 9221)
Nói đến mùa thu, người ta nghĩ ngay đến lá vàng. Trên cây là những tán lá vàng rợp. Dưới đất là những thảm lá vàng, trải lấp cả lối đi. Trời dìu dịu, không có nắng chói chang. Gió se lạnh, lùa qua hàng cây bên đường. Tâm và cảnh dường như có sự giao cảm tương ứng nào đó, gợi lên một nỗi buồn man man, vời vợi. Đẹp, mùa thu thật đẹp. Phân tích chi ly thì cũng khó mà nói được vẻ đẹp của mùa thu nằm ở đâu. Không lẽ chỉ vì lá vàng, lá cam, lá đỏ? Thế thì ở đô thị nhà cửa san sát, xe cộ nườm nượp, lề đường thiếu bóng cây, thì có lá vàng đâu mà mơ mộng, hân thưởng?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]