Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nước Mắt Đàn Ông

05/09/202217:47(Xem: 3074)
Nước Mắt Đàn Ông


nuoc mat dan ong 2


Nước Mắt Đàn Ông





Theo truyền thuyết, tạo hóa sinh ra đàn bà từ một dẻ sườn của người đàn ông và ban tặng họ cả gia tài khổng lồ đó là những giọt nước mắt của suối nguồn yêu thương, đau khổ. Đàn bà khóc là chuyện bình thường. Còn đàn ông, liệu họ có bao giờ rơi nước mắt? Nhân gian quan niệm đàn ông thường gắn liền với bản lĩnh cứng cỏi, sự lạnh lùng vô cảm. Không! Đàn ông cũng biết khóc, cười bởi họ cũng là con người có trái tim. Chỉ có điều nước mắt đàn bà trào qua bờ mi thì nước mắt đàn ông lại chảy ngược vào tim.

Tôi đã hơn một lần chứng kiến nước mắt đàn ông rơi.

Cha tôi khóc, ngày mẹ buông tay cha con tôi đi theo một người đàn ông khác, mẹ mải mê kiếm tìm ảo ảnh hạnh phúc ở chân trời xa lắc mà quên đi tổ ấm bình yên. Ngày ấy, cha câm lặng như một pho tượng bằng đá, bàn tay thô ráp của cha cầm cái rựa chém mạnh vào cây chuối sau vườn nhà, thân chuối đứt đôi như duyên nợ của cha mẹ tôi gãy làm đôi mảnh. Lưỡi dao sắc ngọt chém toạc bóng đêm, chém rách ngọn gió đông gầy, chém toạc lời thề đá vàng tào khang. Tôi sợ hãi ôm lấy cha, hét lên: “ Cha ơi, cây chuối mẹ trồng đó! Nó ra hoa rồi kìa!”. Nghe câu nói ngây thơ của tôi, cha cười đắng ngắt: “cảnh còn, người mất, tiếc chi con!”. Đêm ấy, nằm bên cha, tôi thao thức, nghe hai hàm răng cha nghiến mạnh để không bật ra tiếng khóc nhưng tôi vẫn cảm nhận được những giọt nước mắt mặn mòi của cha chảy ngược vào tim, tim cha buốt nhói, cha trằn trọc, tiếng thở dài kẽo kẹt nhịp chõng tre. Nhiều ngày sau đó, cha lầm lũi làm việc, đêm khuya, cha mượn cút rượu cuốc lủi có cái nút lá chuối khô tìm quên. Những lúc ấy, mắt cha đỏ ngầu, cổ họng cha phát ra những tiếng khô khốc tựa lời nguyền cay độc. Khi ấy, tôi chẳng hiểu cha cười hay khóc nữa, nếu có cười thì cũng ra nước mắt mà thôi. Rồi cha nhìn trăng, ngâm ngợi đôi vần thơ chua chát:

“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ.”

Tôi cảm nhận được vết thương trong lòng cha sâu hoắm như một cái hố. Và tôi biết cha còn thương mẹ rất nhiều. Thương và hận đã vò xé con tim rớm máu của cha. Những tháng ngày ấy, cha tôi nước mắt chan cơm vơi đầy.

Gà trống nuôi con, cha quyết chí nuôi tôi ăn học. Kỳ thi đại học đến, cha con tôi khăn gói quả mướp lếch thếch đưa nhau lên thủ đô. Lần đầu tiên cha tôi xỏ đôi dép, đôi dép tổ ong mới đổi của bà lông ngan, lông vịt không che hết những ngón chân thô kệch lam lũ thò ra. Nhìn bộ dạng quê mùa, lớ ngớ của cha con tôi, bọn xe dù, bến cóc thi nhau chào mời. Cha con tôi bị bán khách đến vài ba lần, vẫn phải đi bộ hàng cây số mới hỏi thăm đến trường thi. Mỗi lần trả tiền xe, cha ngậm ngùi cởi bọc tiền được gói cẩn thận trong cái áo bộ đội đã sờn, còn tôi ấm ức, bức xúc với thái độ chém chặt, lừa gạt khách. Tôi lầm bầm: “ Cuộc sống thành phố thật phức tạp.”. Sợ tôi nản chí, ảnh hưởng việc thi cử, cha gượng cười: “ Lần đầu cha con mình lên đây, như vậy cũng rút ra bài học, đi một ngày đàng học một sàng khôn đó con.”. Sau khi thuê phòng trọ thi cho tôi tại kí túc xá, cha đưa tôi vào căng tin ăn cơm, nhưng cha chỉ mua một suất. Tôi ngạc nhiên hỏi, cha nói rằng hẹn gặp một người quen ăn cơm cùng họ. Tôi hồn nhiên tin ngay mà đâu hay cha lặng lẽ ăn cơm nắm, muối vừng dưới gốc cây. Đêm xuống, cha nói với tôi vào ngủ nhờ nhà người quen. Nào ngờ, sáng ra, lạ nhà, không ngủ được, tôi lang thang ra hành lang, giật mình phát hiện cha đang nằm ngủ ở ghế đá trong khuôn viên. Đến bên cha, tôi nghẹn ngào khóc nấc: “ Mình về thôi cha, con không thi nữa!”. Cha choàng tỉnh, an ủi tôi: “ Bố cô! Tôi ngủ đây mát như đàn, sao nào. Cực bao nhiêu cha cũng lo cho con học, phải học mới mở mặt ra được con ạ! Như cha đây, thất học, bất tài nên mẹ con bỏ cha...”, mắt cha nhìn xa xăm, còn tôi lại hun đúc quyết tâm khoa bảng. Sau mỗi buổi thi, cổng trường đông nghịt phụ huynh chờ con với tâm trạng hồi hộp. Giữa những chiếc xe hơi sang trọng nối đuôi nhau cùng dòng người mặt hoa da phấn, tôi nhận ra cha với chiếc áo bạc màu, cái quần quăn tít như lò xo cùng bộ dạng hớt hải, cha cầm cái mũ cối vẫy tay ra hiệu cho tôi khiến tôi không cầm được nước mắt. Tôi hoàn thành bài thi rất tốt, cha vui lắm, nhìn thiên hạ đưa rước con bằng xe hơi, cha ngậm ngùi: “ Cha bất tài nên con thiệt thòi!”. Tôi ôm lấy cha thầm thì: “Cha là người đàn ông vĩ đại nhất trong mắt con!”, cha cười mà mắt đỏ hoe: “ Bố cô! Lẻo mép!”.

Một ngày đẹp trời, cha đang cào thóc phơi bỗng có tiếng xe đạp “kính coong” của anh bưu tá đưa thư. Tôi trúng tuyển đại học. Hình như cha mừng hơn cả tôi, cầm phong thư có dấu đỏ chót của trường đại học trên tay, cha vỗ tay vào đùi đánh đét rồi quýnh quáng chạy khoe khắp xóm. Bà con ai cũng mừng cho cha con tôi.

Lần thứ hai cha khóc, ấy là ngày tiễn tôi đi học đại học. Ngồi trên chuyến xe liên tỉnh duy nhất trong ngày, tôi ngoái đầu nhìn lại, trong làn khói bụi, cha đứng đó, hanh hao gầy, mắt cha rưng rưng. Bóng cha loang lổ trong hoàng hôn nhạt nắng Tôi lên thành phố để lại trong cha cả trời thương nhớ, cả nỗi cô đơn vò võ. Cuộc sống phồn hoa chốn đô hội khiến tôi lạc lõng, thương nhớ cha nhiều hơn. Cha viết thư dặn dò tôi phải chăm chỉ học, không cần về nhà nhiều, dồn thời gian mà học, cần gì cha sẽ gửi cho. Thương cha, tôi chăm chỉ học hành, giành được học bổng cao nhất.

Nghỉ Tết, tôi háo hức mua sắm đồ trở về quê, không quên mua biếu cha một bộ quần áo mới bằng tiền học bổng của mình. Lặng lẽ về, không báo trước để tạo sự bất ngờ cho cha, bước chân vào khoảng sân vắng, tôi nghẹn lòng bắt gặp hình ảnh cha cặm cụi ngồi gói bánh chưng với đôi bàn tay vụng về, lóng ngóng. Việc này, bao năm rồi mẹ tôi vẫn làm. Cha gầy hơn, đôi mắt trũng sâu hơn. Chạy lại bên cha, tôi nghẹn ngào: “ Con nhớ cha quá!”, chiếc lá dong trên tay cha rơi xuống, cha mừng rỡ ngắm nghía tôi từ đầu đến chân, vẫn câu nói quen thuộc mà ghim tạc vào lòng tôi ngọt ngào: “ Bố cô! Lớn rồi mà như con nít! Liệu mà học, đừng có yêu đương tí tởn, cha gọt đầu bôi vôi nghe con!”. Những ngày Tết thật đầm ấm biết bao, tiếng nói cười rộn rã của tôi dệt thành những sợi nắng hồng sưởi ấm cuộc đời u buồn, ngang trái của cha dẫu những ngày ấy thật ngắn ngủi.

Tốt nghiệp đại học với tấm bằng đỏ, tôi dễ dàng kiếm được một công việc như mơ. Rồi tôi đẹp duyên với một chàng trai Hà thành gia giáo, tài ba. Cuộc đời như trải thảm cho tôi đi. Không! Đúng hơn là cha tôi đã dùng sự lam lũ, cay đắng đời mình để đệt thảm cuộc đời tôi. Cha đã nuôi tôi thành người bằng những đồng tiền lấm lem, chiu chắt một nắng hai sương. Cha đã oằn lưng cơ cực để con đường tôi đi thẳng tắp. Cha đã dùng giọt nước mắt đời mình để tô hồng nụ cười trên môi tôi. Ngày tôi lên xe hoa theo chồng, tôi đâu hay cha đã khóc thật nhiều mặc dù cha cố tỏ ra cứng rắn vì không muốn tôi buồn trong ngày hạnh phúc nhất cuộc đời. Ngoái lại, tôi bắt gặp hình bóng liêu xiêu, gầy guộc của cha thẫn thờ nhìn xác pháo tung bay rợp bờ sông đỏ nắng. Đưa tay vẫy chào tôi, cha khóc, nước mắt lăn dài trên gò má sạm màu nắng gió. Bộ quần áo mới toanh, sang trọng tôi sắm cho cha không khiến cha lột xác, nó mâu thuẩn , đối lập thê thảm với bộ dạng khắc khổ của cha.

Làm dâu xứ người, nỗi nhớ thương cha cồn cào trong tôi. Mỗi khi ngồi quây quần bên mâm cơm gia đình chồng cùng bàn ăn thịnh soạn, tôi lại thắt lòng, quay quắt nghĩ đến cha đơn chiếc bên cái mâm gỗ cùng vài quả cà muối hẩm, rau muống chấm tương. Tết đến, xuân về là lúc tôi nhớ cha nhiều hơn. Được cái mẹ chồng tôi là người hiểu biết, cảm cảnh cha tôi hiu quạnh, bà mua sắm quà Tết rồi cho vợ chồng tôi về quê ăn tết với cha. Tôi mừng rơi nước mắt. Ba Mươi Tết, vợ chồng tôi đánh xe hơi về quê. Không khí ngày xuân khiến xóm làng tưng bừng, rộn rã. Nhà nhà quây quần, đầm ấm bên mâm cơm tất niên sum vầy. Bước chân vào ngõ, lòng tôi quặn thắt nhìn ngôi nhà hiu quạnh, buồn tênh không chút sắc khí ngày xuân. Nép sau cây rơm, tôi lặng lẽ quan sát cha. Thân hình khắc khổ của cha lọt thỏm trong tấm áo bông huyền thoại, ngọn gió mãn đông tàn nhẫn rít gào từng cơn tê tái. Hình ảnh cha khoảnh khắc ấy đóng đinh trong lòng tôi nhức buốt. Ba Mươi tết, cha đơn chiếc, vò võ một mình. Ba Mươi Tết, cha cặm cụi, thui thủi bên chái bếp làm cơm cúng tổ tiên. Bàn tay gầy guộc của cha lóng ngóng đơm xôi, cái bánh chưng bóc vụng miếng to, miếng nhỏ, đỗ, thịt thò cả ra ngoài. Tiếng nói cười rôm rả bên nhà hàng xóm vọng lại khiến cha ngước mắt, rồi cha nhìn xa xăm như kiếm tìm điều gì đó và...một giọt nước mắt mặn mòi từ từ lăn xuống khuôn mặt khắc khổ, in hằn bao cay đắng. Không thể kìm lòng được nữa, tôi chạy đến ôm chầm cha nức nở như con nít bị đòn oan: “ Cha ơi, con về với cha rồi đây!”. Cha tôi sững sờ: “Các con về sao không báo cha? Cúng tất niên xong, mau về trên đấy ăn Tết với ông bà.”. Tôi vẫn nghẹn ngào: “Không, vợ chồng con sẽ ăn tết với cha.”. Cha lặng người, ái ngại: “Thế sao được, con gái lấy chồng phải chu toàn việc nhà chồng. Cả năm có ba ngày tết, các con phải về sum họp kẻo lỗi đạo dâu con.”. Chồng tôi cay cay khóe mắt, ôm choàng cha: “Là mẹ con bảo chúng con về đó cha.”. Đúng lúc ấy có chuông điện thoại của mẹ chồng tôi gọi chúc tết cha tôi, bà nói rằng trên đó còn có các anh, chị nên vợ chồng tôi cứ yên tâm ăn tết ở quê cùng cha. Cha mừng ra mặt, vụng về nói lời cảm ơn và chúc tết bố mẹ chồng tôi.

Một ngày, dì ruột tôi báo tin mẹ tôi bệnh nặng, đơn chiếc một mình không ai chăm sóc. Người đàn ông dụ dỗ mẹ tôi đã bỏ bà ra đi khi “Con ong đã tỏ đường đi, lối về”, khi hoa tàn, nhụy rữa xuân thì nhạt phai. Nghe tin ấy, lòng tôi lạnh lùng, dửng dưng lạ! Tôi thầm nghĩ phải chăng đó là quả báo mà bà đã tự gieo, gặt. Nhưng dì tôi nói đúng, dẫu oán giận bao nhiêu thì tôi vẫn là giọt máu mà mẹ đã mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, thâm tình đâu dễ dàng rũ bỏ. Tôi quyết định thông báo với cha tin này. Mặt ông tím bầm lại giận dữ hệt như cái ngày mẹ bỏ đi, ông hét lớn: “Đừng nhắc tới người đàn bà tệ bạc ấy trước mặt cha. Coi như bà ấy đã chết rồi.”

Vậy nhưng nước mắt cha tôi vẫn rơi tiếp. Ấy là ngày cuối đời của mẹ, cha bất ngờ xuất hiện. Mẹ thều thào nói lời tạ lỗi với cha con tôi trong hơi thở gấp gáp. Cha khóc nghẹn: “Bà dại lắm! Sao lại để mình ra nông nỗi này? Bà có biết tôi vẫn đợi bà trở về từng ngày không? Có kiếp sau, bà vẫn phải trả nợ cha con tôi. Tôi đưa bà về nhà mình nhé!”. Thì ra cha vẫn yêu mẹ nhiều lắm, tình yêu và hận thù làm héo hon con tim cha. Mẹ tôi cười thanh thản, nhẹ lòng, hai tay mẹ run rẩy chới với nắm tay tôi và cha, giọt nước mắt của cha và mẹ hòa vào nhau trên đường giao định mệnh. Mẹ trút hơi thở cuối cùng. Cha tôi lại lặng lẽ lo ma chay cho mẹ, khuôn mặt cha thêm nhiều nếp nhăn hơn, đôi mắt ông trũng sâu hơn. Mỗi ngày cúng cơm cho mẹ, nước mắt cha lại chảy ngược vào tim. Tôi biết!

Khi nước mắt đàn ông rơi, ấy là tột đỉnh của niềm hạnh phúc!
Khi nước mắt đàn ông rơi, ấy là tột cùng của sự khổ đau!
Cha tôi... đã khóc một đời!
Đi qua ngày của cha.
Từ FB Anh Phan








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2018(Xem: 4056)
Đọc Thơ Tuyển của Cư sỹ Đào Văn Bình, Tình cờ chúng tôi có được tập sách Tổ Ấm Cuối Cùng, Thơ tuyển và Kịch bản, của cư sỹ Đào Văn Bình xuất bản năm 1987, gởi tặng cố Hòa thượng Thích Thiện Trì, chùa Kim Quang tại thủ phủ Sacramento, CA. Tập sách có hai phần: Phần 1 là Thơ tuyển mà tác giả cho biết là "Sáng tác ròng rã qua 9 năm lưu đày tù ngục và 1 năm phiêu linh qua các trại tỵ nạn". Phần 2 là Kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (Sáng tác từ tại tỵ nạn Sungei Besi). Ở đây tôi chỉ viết cảm hứng của mình khi đọc vài bài thơ trong lúc bị tù đày của một cư sỹ lão thành luôn có tâm với đạo pháp và dân tộc.
12/01/2018(Xem: 4658)
Nhớ lại 3 năm trước, tôi đến Seattle vào một chiều Thu cuối tháng Mười. Vừa rời khỏi sân bay, cảm nhận đầu tiên của tôi đối với đô thị xa hoa có nhịp sống bận rộn này là cái se se lạnh của tiết trời đang độ giữa Thu. Trong tôi lúc đó vẫn còn nỗi bồn chồn lo lắng, tâm trạng của một người vừa xa quê, bước chân vào một đất nước xa lạ. Sự mát lạnh của khí trời như xoa dịu phần nào nỗi lo lắng trong tôi. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi vẫn nhớ như in cảm xúc đầu tiên ấy, và dần dần, tôi nhận ra mình có cảm tình với mùa Thu ở Washington.
15/12/2017(Xem: 6352)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87308)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 137403)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 4022)
Đọc “Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế” của Thích Tín Nghĩa, Nhân dịp Nguyên Giác và tôi ra mắt sách ở Chùa Bát Nhã, Nam California, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa- Viện Chủ Từ Đàm Hải Ngoại Irving, Texas không về dự được nhưng đã có thư cáo lỗi. Từ việc làm hết sức cẩn trọng và khéo léo đó, tôi sinh lòng cảm mến và làm quen với hòa thượng qua điện thư và được hòa thượng ưu ái tặng cho bốn cuốn sách của chính hòa thượng, bao gồm:
07/11/2017(Xem: 3848)
Nhà thấp nhất trong xóm. Mái tole. Cửa gỗ. Sàn gác gỗ sao. Nó khiêm tốn lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng khang trang, kiên cố với beton cốt thép, cửa sắt, cửa kính chịu lực... Diện tích gian dưới của căn nhà cấp 4 này chỉ 24 mét vuông, chia thành hai gian, bếp và nhà vệ sinh chiếm hết gần một nửa, còn lại chừa cho gian phòng khách chật chội với bàn ghế, divan, tủ sách, chỗ để hai chiếc xe máy... Vậy mà vào lúc sáng sớm, khi cơn bão Damrey dữ tợn bắt đầu đổ bộ vào đất liền, hung hăng sấn vào lòng thành phố biển Nha Trang, căn nhà khiêm tốn trong hẻm nhỏ này là nhà duy nhất mở cửa để đón nhận 15 người khách lỡ đường chui vào nương trú để tránh bão. Duy nhất. Vì mọi nhà xung quanh đều đã cửa đóng then cài kín bít từ đầu tối hôm trước.
05/11/2017(Xem: 24535)
Cách Đọc Tên và Phát Âm 23 Chữ Cái, Hiện nay tại Việt Nam cách gọi tên và cách phát âm 23 mẫu tự tiếng Việt vô cùng lộn xộn. Thí dụ: Trên chương trình Thời Sự Quốc Phòng, thiết vận xa M.113 có cô đọc: em mờ 113. Có cô đọc mờ 113. -Chữ N có nơi đọc: en nờ (âm nờ hơi nhẹ). Có nơi đọc nờ.
12/10/2017(Xem: 11508)
Viết về anh Bùi Giáng là một việc làm cần lòng can đảm. Thậm chí cần rất nhiều can đảm, có khi phải nói nôm na là liều mạng mới dám viết. Những người có thời gần gũi và thương mến anh ai cũng có lần cảm nhận điều đó. Anh thích người ta đọc sách anh, thưởng thức thơ văn anh, nghiền ngẫm tư tưởng của anh. Nhưng ngược lại anh hay nổi nóng nếu ai hiểu sai ý anh. Anh rất giận khi có ai viết sai một chữ, kể cả sai một dấu phẩy, những câu thơ của anh. Có rất nhiều khi anh cho đó là một sự xuyên tạc có hậu ý. Dù sao, anh và tôi đã từng sống chung gần ba năm trời ở Vạn Hạnh chả lẽ không có gì để nói, lâu nay tuy rất muốn viết nhưng tôi vẫn cố tránh, cho đến khi có người nhắc.
13/08/2017(Xem: 6636)
Cách đây ít lâu, một nhóm Phật tử tại Hà Nội sang Đài Loan đảnh lễ Pháp sư Tịnh Không, được ngài ban cho một bộ sách gồm 7 quyển, ân cần dặn dò nên tìm người dịch sang tiếng Việt để lưu hành rộng rãi. Bộ sách ấy có tên là Thánh học căn chi căn (聖學根之根), với ý nghĩa là những nền tảng căn bản nhất trong cái học được các bậc thánh nhân từ xưa truyền lại. Sách do cư sĩ Nhân Duyên Sinh tuyển soạn từ kinh sách của cả Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo, nhằm mục đích hình thành một bộ sách giáo khoa thích hợp và bổ ích nhất cho các em ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]