Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nụ cười Hiểu và Thương

30/07/202221:08(Xem: 2656)
Nụ cười Hiểu và Thương

nu cuoi hieu va thuong


Nụ cười
Hiểu và Thương

 

Mùa hè năm 2000 tôi dẫn hai cậu con trai một lớn, một bé đi nghỉ hè tại một nơi thật đặc biệt tại miền Nam nước Pháp. Nơi có những khu vườn thoai thoải trồng nho bát ngát  và sản xuất rượu vang Bordeaux nổi tiếng. Nhưng chúng tôi không đi tìm rượu nho, mà tìm Làng Hồng (Plumvillage) của Sư Ông “Thiền Chánh Niệm“ để dự khóa tu một tuần. 

 

Đối với cậu cả Gia Thiện mới tròn mười tám của tôi, đây là cả một thế giới mới lạ đầy tâm linh mà cậu đã đọc được trong sách vở bằng tiếng Anh do tôi ký cóp đem về. Cậu đòi sang tận nơi, gặp tận mặt cái người đã nói cho cậu biết một sự thật cho dù đã xưa như trái đất là trong con người cậu cũng có Phật tánh, một  "Buddha-Natur". Thật chấn động! Thật khó tin!

 

Còn phần cậu út Gia Huy, mới tám tuổi chưa biết gì, chỉ biết hớt tóc thật  ngắn cho đúng mốt "À-la Làng Mai" và đánh Ping-Pong với các bạn ngoại quốc cùng tuổi tại Xóm Hạ mỗi tối. 

 

Chỉ có bà mẹ là được lợi lạc nhiều hơn cả và được phỉ chí tang bồng, dạo chơi thăm vãn các hồ sen tuyệt đẹp của Làng, đúng với hai câu thơ của Sư Ông:

 

 Chẳng biết rong chơi miền Tịnh Độ.

Làm người một kiếp cũng như không. 

 

Tôi nguyên thủy xuất thân từ gia đình truyền thống Tịnh Độ, lúc năm tuổi đã theo bà nội đi Chùa tụng kinh niệm Phật, rồi làm Oanh Vũ trong Gia Đình Phật Tử của Khuôn A Dục Vương ở Nha Trang. 

 

Sau này tìm Sư Phụ quy y cũng theo Tịnh Độ với pháp danh Thiện Giới, không hòa nhập với các bạn Đạo chuyên về Thiền với chữ Tâm, hay chữ Chân đứng đầu. Cứ nghe họ chia sẻ trong những buổi Pháp thoại, ngồi Thiền cả tiếng đồng hồ với "Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười", khiến tôi cứ phục lăn quay mà khả năng mình không làm nổi! Tôi chẳng thể ngồi bó chân với tư thế kiết già, đến bán kiết già còn chưa được nửa tuần hương nữa là...!!! 

 

Ngồi một lát tôi thấy mỏi lưng, đau chân và buồn ngủ. Để tâm được an trú trong hiện tại và đừng ngọ nguậy làm phiền các bạn Đạo chung quanh, tôi phải đổi cách hít thở cho phù hợp với căn cơ: "Hít vào A Di, thở ra Đà Phật". Nhờ thế tôi mới không rơi vào trạng thái hôn trầm. 

 

Thời gian ấy gia đạo của tôi gần như "nát bấy như tương", để trốn tránh nợ đời lẫn nợ tình, tôi vào Chùa học hỏi chánh pháp của Đức Phật để chuyển hóa khổ đau. Học gấp rút, nghe thuyết pháp bằng băng giảng ngày đêm, cuối tuần tu học hai xuất: thứ bảy tại Thiền Đường Suối Thương của Sư Ông, đi thiền hành trong chánh niệm ; chủ nhật tại chùa Linh Thứu với Tịnh Độ Tông, đi kinh hành và niệm Phật nghiêm mật hằng giờ. Lúc ấy tôi chỉ nhớ câu "Thiền Tịnh song tu, như mãnh hổ thêm cánh" của Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư, làm kim chỉ nam cho sự tu tập. Công lao lớn vẫn là bác Năm Trực Ngộ, đã dẫn dắt tôi vào ngôi nhà chánh pháp cả Thiền lẫn Tịnh.

 

Tuy nhiên tôi cũng bị va chạm chút xíu giữa hai tông phái. Tôi đã quen với câu niệm Phật từ thuở bé, bây giờ phải đổi lại là niệm Bụt, chẳng quen và chẳng nhập tâm chút nào! 

 

Tuy Sư Ông đã giải thích nhiều lần là chữ Bụt lấy từ chữ Buddha, là người tỉnh giác nghe rất thuận âm. Nhưng tôi đây đã bị ám ảnh từ thuở bé bởi câu chuyện cổ tích tấm cám do bà nội kể, đến đoạn cô Tấm ngồi khóc thì bỗng ông Bụt hiền lành với râu tóc trắng xóa hiện ra hỏi: "Làm sao con khóc?". Thế thì làm sao tôi có thể gọi Phật bằng Bụt cho được! Do đó Sư Ông cứ niệm Bụt, phần tôi cứ niệm Phật, chẳng sao cả trong rất nhiều khóa tu cho đến khi Sư Ông không còn sức khỏe để giảng dạy nữa. Và tôi đã học được rất nhiều phương pháp chuyển hóa khổ đau từ Sư Ông, chẳng hạn như "Hãy nhận diện khổ đau, ôm ấp và vỗ về, rồi từ từ chuyển hóa".

 

Tôi nhớ mãi hình ảnh của Sư Ông, dáng gầy gầy với nụ cười tươi sáng đầy Hiểu và Thương, giọng nói rất nhỏ nhưng ấm áp, phải chú tâm cho lắm mới nghe rõ những lời pháp nhũ. Trong óc tôi lúc ấy phải có sẵn một từ điển Phật học sống mới thích nghi được với hai môn phái Thiền Tịnh song tu. Này nhé! Khi đến Thiền Đường thấy hai bút pháp Hiểu và Thương của Sư Ông, phải liên tưởng ngay đến hai vế "Lưỡng túc tôn: Từ Bi và Trí Tuệ". Nam Mô Bụt Thích Ca Mâu Ni, phải đổi lại là Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật. Còn các tiểu tiết khác biệt không đáng kể khác, chỉ cần vài ba lần là tôi quen ngay. Nhất là trong cách xưng hô với các vị Tôn Túc, khi nào phải gọi là Sư Bác, Sư Chú, Sư Chị, Sư Em...

 

Tôi ngưỡng mộ nhất là tài văn chương thi phú của Sư Ông và điều này đã làm hao tổn hầu bao của tôi khá nhiều khi nghiện đọc sách của Sư Ông. Mỗi lần đến thiền đường sinh hoạt, tôi đều mua sách của Sư Ông, cuốn "Đường xưa mây trắng" viết về cuộc đời của Đức Phật dày đến 500 trang đâu phải rẻ, rồi lại "Thả một bè lau" viết về cuộc đời cô Kiều với dẫn giải thật thích hợp từng giai đoạn một. Tôi tâm đắc nhất đoạn Sư Ông trách Sư Chị Giác Duyên không chịu dạy dỗ Sư Em Trạc Tuyền giữ năm giới cho chu toàn, ai biểu đi ăn trộm chuông vàng khánh ngọc nhà Hoạn Thư rồi bỏ trốn để sau này cũng vì mấy món đồ phi pháp ấy mà phải vào thanh lâu lần thứ hai. Đúng quá đi chứ! 

 

Vào năm 2005 nhân chuyến về Việt Nam tôi lặn lội lên tận Lâm Đồng thăm viếng Thiền Đường Bát Nhã của Sư Ông, núi rừng bát ngát, tăng đoàn thanh tịnh, hạnh phúc là đây, đây là Tịnh độ, không thể tìm ra đâu nơi thứ hai! Thế mà vô thường ập đến, chỉ thời gian ngắn sau, Bát Nhã đã biến thành nơi... không đến, không đi, không tới...!!!

 

Rồi tăng đoàn của Sư Ông về xây dựng pháp môn Làng Mai tại chùa Từ Hiếu, nơi Sư Ông xuất thân vào Cửa Không ngày thơ ấu. Thời gian sau lại xuất hiện hai câu vè trong dân gian thật bí hiểm:

Sư Ông thả một bè lau.

Thầy trò Từ Hiếu nỗi đau mất Chùa. 

 

Lúc còn sinh thời Sư Ông Làng Mai rất nổi tiếng, chỉ đứng hạng thứ hai sau Đức Đạt Lai Lạt Ma mà thôi! Nhưng thiên hạ có một số người thích đem Sư Ông ra mài giũa: nào là thân cộng, nào là muốn hòa giải với phiến loạn phá tòa nhà Tháp Đôi...

 

Ôi! “Ở sao cho vừa lòng người. Ở rộng người cười, ở hẹp người chê“! 

Tôi cũng ráng học được ít nhiều về nụ cười Hiểu và Thương của Sư Ông để tránh tranh cãi thị phi về những chuyện "Thấy vậy mà không phải vậy". 

Hiểu càng sâu, thương càng rộng.

Hiểu càng rộng thương càng sâu

Những thư pháp như thế treo đầy chung quanh thiền đường, cứ việc lấy giấy bút ra ghi chép về nghiền ngẫm sẽ ngộ ra rất nhiều điều lợi lạc.

 

Ai bảo đi tu là dễ! Những bạn Đạo của tôi đã sang Làng tu tập nhiều lần, có người đã trở thành Giáo thọ hay Sư Chú, Sư Cô... Nhưng cũng có người rớt đài, được Sư Ông gửi về nhà lo chuyện gia đình. Tôi thầm gọi họ là những Pháp Rớt hay Cuối Nghiêm! Chỉ dám nghĩ thầm thôi nhé! 

 

Bài giảng hay Kinh Nhật Tụng của Làng Mai đa số đã được Sư Ông soạn bằng văn xuôi ít từ ngữ Hán Việt nên rất dễ hiểu và thấm vào lòng người. Những bài Pháp thuộc loại "gỡ rối tơ lòng" xóa bỏ các nội kết chất chứa trong lòng của các thành viên trong gia đình như vợ chồng, con cái... thì nhiều vô số kể! Đáng kể nhất vẫn là câu chuyện chiếc hộp bánh LU, chứa đựng những bức thư tình đầy kỷ niệm mà thời gian đã xóa nhòa bao tình cảm tốt đẹp thuở ban đầu. Sư Ông muốn nhắc nhở chúng ta qua câu chuyện "Chiếc hộp bánh LU" bằng thiếc đấy thôi!

 

Còn giảng về Duy Thức học trừu tượng, Sư Ông chỉ dùng một cây đèn cầy và một que diêm là đủ diễn tả cả một môn học phức tạp có đầy đủ các Tâm Sở và Tâm Vương mà chẳng cần nhắc đến các từ ngữ khó hiểu này. Hay những ví von đơn giản về những đám mây để đưa đến đề tài sinh tử như: Khi chết ta sẽ đi về đâu? 

 

Tại thiền đường của Sư Ông, tôi học được rất nhiều danh từ mới: Mỗi tuần vào thứ hai tôi có "Ngày làm biếng", nghĩa là được tự do cá nhân không phải làm gì hết! Nhưng mất quyền lợi không được nghe Sư Cô Chân Không hát ru ngủ trong giờ "Thiền buông thư", mà tôi cứ gọi nhầm là Thiền buông xuôi vì hai tay phải thả lỏng buông ra. 

Sau các buổi giảng đều có các buổi Pháp thoại ngồi quây quần bên nhau, để các Tăng Thân chia sẻ những gì mình đã thu thập được. Ôi thôi, mọi người được dịp giải tỏa nỗi lòng, kể hết các nỗi khổ niềm đau, mỗi nhà mỗi cảnh chẳng ai giống ai. Nhưng được cái mọi người đều cùng học hạnh lắng nghe của Bồ Tát Quán Âm, nên người kể cũng bớt khổ! Câu hỏi hay được đặt ra là tại sao trong gia đình toàn những Bồ Tát tại gia, nhưng sao vẫn không ấm êm? Chắc tại cái tôi của các Bồ Tát này còn cao hơn cả núi Tu Di!

 

Để giúp chúng ta đối trị với cơn giận, Sư Ông đã viết cả một cuốn sách, dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Tôi chỉ áp dụng được mỗi một điều, mỗi khi Bồ Tát Chồng nổi cơn thịnh nộ, không nên phân giải biện bạch đúng sai, mà phải bỏ chạy ra vườn tìm góc vắng ngồi hít thở và niệm Phật. Chẳng mấy chốc "Hầm lửa sẽ biến thành hồ sen"!

 

Nhưng phương pháp "Làm mới" để giải tỏa các nội kết giữa hai bên, tôi không làm được! Làm sao tôi có thể mặc áo tràng, cầm bình hoa, trịnh trọng đến mời phe kia ra phòng khách để đàm phán. Chàng sẽ trợn mắt tưởng tôi đang đóng kịch hay có vấn đề? 

 

Một đề tài nhạy cảm gây nhiều tranh cãi đó là "Thiền ôm". Các tăng thân khi gặp nhau hay chia tay thường áp dụng phương pháp Thiền ôm để truyền trao năng lượng yêu thương cho nhau. Tôi cũng áp dụng nhiều lần nhưng với người cùng phái, vì chỉ sợ "Sáu căn tiếp xúc với sáu trần" không tốt. 

 

Với cái nhìn về Tịnh Độ với Tín Hạnh Nguyện của tôi từ bao lâu đã hơi đổi khác, tôi không phải chờ đến khi chết mới được Phật A Di Đà giơ tay đón tiếp đưa về cõi cực lạc, mà ngay bây giờ, hiện tại nơi đây tôi đã sống trong cảnh giới của Ngài. Sư Ông đưa ra một ví dụ rất thực tế, nếu ta làm việc chăm chỉ nhưng người chủ lại không trả tiền ngay mà hẹn ta sau khi chết mới chịu trả tiền. Do đó Sư Ông bảo ta phải hát:

Đây là Tịnh Độ. 

Tịnh Độ là đây. 

Chánh niệm bây chừ. 

An trú trong ta.

Bụt là lá chín.

Pháp là mây bay.

An vui khắp chốn.

Tiêu dao tháng ngày. 

 

Sư Ông bây giờ đã là "mây trắng thong dong" bay khắp nơi trong bầu trời vô định. Làm sao chịu nhốt mình trong tòa tháp nguy nga cho mọi người đến lễ bái như di chúc của Người, không cần xây Tháp. Sẽ có lúc nhân duyên hội đủ, một phần đám mây sẽ biến thành mưa và trận mưa Pháp này sẽ cho ra những nụ cười Hiểu và Thương với hai câu thơ ấm áp lòng người:

Về đến quê xưa tìm gốc rễ. 

Đi qua cầu hiểu, đến cầu thương. 

 

 

Hoa Lan - Thiện Giới. 

Mùa xuân 2022.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2021(Xem: 7396)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
31/08/2021(Xem: 7793)
Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật (Ajanta, 印度古代佛教阿旃陀石窟) vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt nghìn năm tuyệt tác, tọa lạc trên vách núi Maharashtra Dayak, phía Bắc của bang Maharashtra, Ấn Độ với 30 hang động được xây dựng từ thế kỷ thứ 2-7 trước Tây lịch. Trong A Chiên Đà Thạch quật có rất nhiều tranh cổ và một số bức bích họa được xem là ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo. Hang động vòng vách núi hình lưỡi liềm, tường thấp, trải dài hơn 550 mét. Với kiến trúc mỹ thuật tráng lệ, nét chạm khắc và bích họa tinh tế hoành tráng, là một Thánh địa Phật giáo, một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất phía Nam Ấn Độ. Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật là một trong những di sản lớn nhất về đạo Phật còn lưu giữ được đến ngày nay. Theo UNESCO, đây là những kiệt tác của Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo có ảnh hưởng đến nghệ thuật Ấn Độ sau này. Các hang động được xây dựng thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 2 TCN và giai đoạn
25/08/2021(Xem: 8587)
Do sự cố vấn chỉ đạo của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Hội Đồng Hoằng Pháp của chúng con/chúng tôi rất hoan hỷ để kính trình Quý Ngài và Quý Vị chương trình giảng dạy tiếng Phạn cơ bản cho Tăng Ni cũng như Quý Phật Tử nào có tâm muốn trau dồi Phạn ngữ trên hệ thống Online như thư chiêu sinh của Giáo Sư Đỗ Quốc Bảo có gửi kèm theo thư nầy. Mục đích chính là để tiếp nối truyền thống đọc được kinh điển trực tiếp từ tiếng Phạn và có khả năng đọc cũng như dịch giải những bản Kinh bằng tiếng Phạn về sau nầy; nên bắt đầu từ tháng 9 năm 2021 việc chiêu sinh được thực hiện, nếu số lượng Tăng Ni và Phật Tử ghi danh đầy đủ như về số lượng và những điểm yêu cầu khác cho một người muốn học Phạn ngữ (xin xem điều kiện có gửi kèm ngay bên dưới). Vậy kính xin Quý Ngài tạo điều kiện cho tử đệ của mình tham gia học ngôn ngữ nầy để tiếp nối con đường của những bậc tiền nhân đã đi trước. Việc học nầy không hạn chế là Tăng Ni hay Phật Tử, miễn sao Quý Vị đáp ứng thỏa đáng được nhu cầu cần có và đủ của một người
23/08/2021(Xem: 2661)
Sau giờ tan trường, Dung thong thả đạp xe về nhà dọc theo đại lộ Thống Nhất. Đến ngã tư Thống Nhất-Hai Bà Trưng gặp đèn đỏ, Dung rẽ phải về hướng Tân Định. Với mái tóc thề đen mướt xõa trên vai áo dài màu tím của trường Nữ Trưng Vương làm cho nhiều người đang chờ đèn xanh không khỏi chú ý. Vài phút sau, bỗng có một chiếc xe Jeep chạy qua mặt Dung rồi dừng lại. Dung đạp xe đến gần, bất ngờ một thanh niên trong bộ quân phục sĩ quan Hải quân màu trắng từ trên xe nhảy xuống chặn làm Dung hốt hoảng dừng lại, lảo đảo suýt ngã xe. Anh chàng vội vàng đỡ xe cho Dung và nói: - Xin lỗi cô về cử chỉ đường đột của tôi. Cô cho tôi hỏi thăm, cô có phải là Dung, người Phan Rang không? - Xin lỗi, anh là ai mà hỏi tôi như thế? - Tôi là Thanh, bạn ngày xưa của Đạt, anh của Dung… - Vậy sao?… Dung chau mày, cơn bàng hoàng sợ sệt chưa dứt, trong đầu cố nhớ lại vì đã lâu lắm rồi không nghe anh Đạt nhắc đến. Thanh giải thích thêm để trấn an và chờ cho Dung hồi tưởng
23/08/2021(Xem: 3184)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên. Cây phong đầu ngõ lại chuẩn bị trổ sắc đỏ ối như mọi năm. Người đi xa từ những mùa thu trước, sẽ không trở về. Những người bạn lâu không gặp, thư gửi đi bị trả lại, nhắn tin điện thoại không thấy trả lời. Có lẽ cũng đã ra đi, không lời từ biệt.
19/08/2021(Xem: 7621)
Phật Đản và Vu Lan là hai ngày lễ lớn nhất của Phật giáo trong năm. Riêng đối với tuổi trẻ thì Phật Đản là gốc rễ mà Vu Lan là hoa lá cành. Gốc rễ giữ cội nguồn và hoa lá cành làm giàu thêm vẻ đẹp. Phật Đản là ngày lễ trọng đại mừng Đức Phật Thích Ca ra đời. Vu Lan là ngày kỷ niệm Mục Kiền Liên tâm thành hiếu hạnh. Tích Mục Kiền Liên cứu mẹ đã trở thành biểu tưởng bái vọng của tinh thần báo hiếu tâm linh và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong đạo Phật.
17/08/2021(Xem: 7504)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
06/08/2021(Xem: 9722)
Cũng như chuông, trống cũng được coi như là một loại pháp khí không thể thiếu trong văn hóa tín ngưỡng của đa số dân tộc theo Phật giáo. Phật tử Việt Nam chúng ta rất gần gũi với thanh âm ngân vang thâm trầm của tiếng chuông; tiếng trống thì lại dồn dập như thôi thúc lòng người...Tại các ngôi chùa, trống Bát Nhã được đánh lên là để cung thỉnh Chư Phật, Chư Bồ Tát quang giáng đạo tràng chứng tri buổi lễ. Thông thường trống Bát Nhã được đánh lên vào ngày lễ Sám hối và trong những ngày Đại lễ. Ba hồi chuông trống Bát Nhã trổi lên để cung thỉnh Chư Phật và cung đón Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni quang giáng đạo tràng, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người nên lắng lòng, buông bỏ mọi tạp niệm. Bà kệ trống Bát Nhã được đọc như sau: Bát Nhã hội Bát Nhã hội Bát Nhã hội Thỉnh Phật thượng đường Đại chúng đồng văn Bát Nhã âm Phổ nguyện pháp giới Đẳng hữu tình Nhập Bát Nhã Ba La Mật môn Ba La Mật môn Ba La Mật môn.
05/08/2021(Xem: 6548)
Trước đây Tôi không hề nghĩ rằng: “mình sẽ có ngày trình pháp với Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng sau mỗi bài pháp thoại của Ngài”, dù cho tôi không mang một tư tưởng phân biệt Nam Tông và Bắc Tông, nhưng có lẽ tri thức tôi có rất nhiều sai lầm và vướng mắc do không tiếp xúc nhiều với các đạo tràng, mà chỉ quẩn quanh đọc kinh sách và chỉ là cái túi đựng sách! Có ngờ đâu đại dịch của thế kỷ 21 bắt đầu....theo như đa số mọi người lầm tưởng (trong đó có tôi) ....chỉ là cơn bão thoáng qua, không ngờ đã diễn biến càng ngày càng trầm trọng. Và với lòng từ bi, TT Giảng Sư đã tổ chức các buổi nghe pháp thoại online và ...với thì giờ nhàn rỗi trong những ngày bị lockdown, tôi đã chăm chú nghe từ một vài lần trong tuần sau đó, đổi thành liên tục mỗi ngày và bắt đầu nghiện ... khi thiếu vắng mỗi khi Giảng Sư có Phật Sự bên ngoài ...
02/08/2021(Xem: 18980)
Tiếng chuông chùa vang lên để xoa dịu, vỗ về những tâm hồn lạc lõng, bơ vơ. Hồi chuông Thiên Mụ, mái chùa Vĩnh Nghiêm một thời chứa chan kỷ niệm. Đó là lời mở đầu trong băng nhạc Tiếng Chuông Chùa do Ca sĩ Thanh Thúy trình bày và ấn hành tại hải ngoại vào đầu thập niên 80. Thanh Thúy là ca sĩ hát nhạc vàng, đứng hàng đầu tại VN trước năm 1975. Cô là đệ tử của HT Nguyên Trí ở chùa Bát Nhã, California. Khi Thầy còn ở VN cuối thập niên 80 có đệ tử ở bên Mỹ đã gởi tặng Thầy băng nhạc Tiếng Chuông Chùa này. Hôm nay Thầy nói về chủ đề Tiếng Chuông Chùa, hay tiếng Chuông Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung là một cái chuông lớn được treo lên một cái giá gỗ đặt trong khuôn viên chùa hay trong Chánh điện. Hồng Chung là một pháp khí linh thiêng, là một biểu tượng đầy ý nghĩa của Phật giáo, nên chùa nào cũng phải có, lớn hay nhỏ tùy theo tầm cỡ của mỗi chùa. Hàng ngày Đại Hồng Chung được thỉnh lên vào buổi chiều tối, báo hiệu ngày
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]