Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc bài viết nhớ nhà văn Võ Hồng của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

30/04/202221:19(Xem: 2890)
Đọc bài viết nhớ nhà văn Võ Hồng của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

nha van vo hong
Đọc bài viết
nhớ nhà văn Võ Hồng của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

-Trương kim Báu-

 

Đọc những bài thơ của Võ Hồng, tôi mất ngủ cả đêm, nhớ và thương Thầy thật nhiều.

 

Quạnh Hiu

Năm giờ sáng mở mắt

Nhìn quanh chỉ ghế bàn

Thèm thấy một khuôn mặt

Thèm nghe tiếng dịu dàng

Mười giờ đêm thâm u

Bóng tối như cõi chết

Tình yêu, tìm nơi đâu

Hạnh phúc, chào vĩnh biệt

  Võ Hồng

 

Nay các con nên người

Mỗi đứa đi một ngã

Mình cha căn nhà xưa

Trông vừa quen vừa lạ

Không còn ngày gian khổ

Chỉ dư ngày tiêu điều

Vắng con như cây cỏ

Héo úa giữa quạnh hiu

(Ba mươi năm sau)

 

Di Ngôn

....................

Nơi sân thượng xin để nguyên chiếc ghế

Kê sát lan can, hướng xuống mặt đường

Nơi những đêm dài, trong tối đầy sương

Tôi ngồi lặng, mắt chong chờ đợi

Đợi một người đi không hẹn trở lại

Hun hút đường dài...vun vút xe qua

Những dáng ngược xuôi...những cặp hẹn hò

Bầy chó lang thang...hàng cây đứng lặng

Chia sẻ nỗi niềm: Từng ngôi sao xa

............................

Võ Hồng

 
***


Chúng tôi là những nữ sinh vào lớp đệ thất khi trường Lê Quí Đôn Nha Trang mới mở. Thầy Võ Hồng dạy hai môn Vạn vật và Việt văn, Thầy cũng là người chỉ đạo coi sóc lớp tôi.

Thầy thường chạy chiếc velo đen, cao người, thật hiền và rất tế nhị. Thầy biết hết lý lịch và tánh tình từng học sinh trong lớp.

 

Chúng tôi 4 đứa con gái từ trường nữ tiểu học Nha Trang  đều vào đệ thất trường Lê Quí Đôn. Hôm đó đi qua một ngôi nhà gần trường, chúng tôi cứ lượn qua lượn lại vì ai cũng muốn hái những cành hoa tím. Đứa canh trước đứa canh sau, cuối cùng một bạn trong nhóm bẻ trộm được nhánh hoa. Đang tíu tít giành nhau để ngửi mùi thơm, từ xa xe Thầy chạy đến và thấy rõ, chúng tôi giật mình nên không đứa nào còn dám giữ cành hoa, vì vậy trước cổng trường tự nhiên ngạt ngào hương hoa tím.

Vào lớp, 4 đứa đều hồi hộp vì sợ Thầy đem chuyện này ra nói. Giờ vạn vật, Thầy giảng về nụ hoa, đài hoa, nhị hoa, noãn hoa v.v... Cuối cùng Thầy giảng về công lao của người làm vườn.  Hú hồn! Từ đó 4 chúng tôi bỏ tật hái trộm hoa.

 

Khi cô mất rồi, nhiều nhóm nam nữ học sinh trong lớp đến nhà Thầy. Con gái thì chơi với hai con của Thầy là Hằng và Thủy, chải tóc, bày em thắt bím, chơi đồ hàng. Con trai thì chơi với em Hào, con trai của Thầy. Lúc  chúng tôi chào Thầy ra về, bao giờ Thầy cũng đưa ra cổng và trong vườn có loại hoa nào nở là Thầy hái cho nhóm 1 cành hoa.

 

Trong trường có nhiều cô giáo miền Nam mới đến dạy, học trò xầm xì với nhau vì mong Thầy cưới vợ để Thầy không còn cô đơn và có người lo cho các em. Nhưng ngày tháng trôi qua Thầy vẫn đơn côi, một mình gà trống nuôi con dù thầy còn rất trẻ.

 

Hết thời trung học chúng tôi như đàn chim vỡ tổ, mỗi đứa đi một nơi. Mỗi lần trở lại quê nhà ở Nha Trang thăm Thầy là biết tin tức của nhau, vì Thầy biết rõ trong lớp có bao nhiêu người đi lính, đi binh chủng nào, học ngành nào.

 

Một hôm tình cờ tôi gặp lại người bạn thời trung học ở phi trường. Anh mừng đến ôm tôi và anh tự giới thiệu: “Cứ đây. Cứ đây”.  Tôi vẫn không nhận ra vì cách xa lâu quá. Nay anh trong bộ đồ bay màu cam của phi công lái máy bay khu trục cơ A1 Skyraider.  Anh cao to, đẹp trai và thật oai phong. Anh mới về nước mấy tháng, nay vào Nha Trang và sẽ làm ở đây luôn. Sau đó anh rủ tôi đến thăm Thầy Võ Hồng vào ngày thứ bảy và Thầy nhận ra anh ngay.

-        Đinh Quang Cứ phải không?

 Tôi phục Thầy quá! Thầy tỉnh bơ:

-        Có gì mà con phục. Trước khi đi Mỹ, Cứ có đến chào Thầy mà.

 

Rồi năm 1967, Cứ bị rớt máy bay, cánh dù không bung ra được. Cứ đã vào lòng đất mẹ.

Tôi tìm Thầy để báo tin thì Thầy đã biết trước rồi. Thầy ngồi bất động và đau buồn. Tôi nghĩ không phải thầy chỉ có 3 người con ruột, mà tất học trò đều là con của thầy.

 

Ngày Không Quân làm lễ để đặt tên con đường song song với phi đạo là đường Đinh Quang Cứ, vì anh đã anh dũng  chiến đấu cứu quân bạn đang bị vây được thoát hiểm.

Thật ngạc nhiên khi thấy Thầy bằng lòng đi dự buổi lễ đại diện cho nhà trường, vì bản tính Thầy không bao giờ khoe khoang hay muốn làm nổi bật. Tâm hồn Thầy vô cùng nhạy cảm. Trong khi bạn bè nhất là đám con gái không ai dám đi dự. Chỉ lặng lẽ đi sau đó.

 

Hôm đưa chồng tôi đến gặp Thầy. Tôi nói:

-        Thưa Thầy, con xin giới thiệu, đây là con rể của Thầy đó.

Thầy thật vui mừng và thân mật nói chuyện. Thầy biết nhiều về Không Quân, nhất là những loại máy bay chiến đấu hiện VN đang có và loại chồng tôi đang bay.

Lúc ra về chồng tôi phải khen là Thầy giáo mà Thầy rành máy bay quá!

-        Vì học trò Thầy có nhiều người là phi công. Mà nữ sinh cũng kết hôn với phi công như em đây. Thầy là Cha phải biết rõ nghề các con và rể của  mình chứ. Những nữ sinh khi chồng bị tử nạn, Thầy cũng đau buồn khôn xiết như nỗi đau con gái của mình.

 

Thầy xót xa vô cùng khi Thúy bắt các bạn đến chơi, phải cùng nhau ăn cơm cháy, để phần cơm trắng cho anh Dị đi bay về ăn, trong khi bên không quân đang tìm xác Dị vì anh vừa gãy cánh.

Thầy cứ thở dài than tội nghiệp cho con tôi! Còn quá trẻ mà đã thành góa phụ.

 

Đầu năm 1983 tôi trở về Nha Trang khi chồng tôi từ Bắc vừa ra tù được 3 ngày, vượt biên liền và thoát được rồi.

  

Về thăm má tôi lần cuối, tôi đến thăm Thầy để vào lại Sài Gòn theo chân chồng vượt biên, hy vọng gia đình đoàn tụ ở một xứ tự do, cho các con được đi học.

Gặp lại tôi, Thầy thật vui và nói:

-        Trong tuần này thầy rất hên, con là người học trò thứ 3 đến thăm. Xuân ngồi cuối lớp, con nhớ không? Xuân ưa bắt các con nhái, thằn lằn bỏ vào bàn nữ sinh đó. Và một người nữa, người này con không biết, đó là thầy tu, học sinh trường Bồ Đề.

 

Chiều đó Thầy ở bên trong rào đang săn sóc các cây hoa, nghe tiếng nói xôn xao bên ngoài, Thầy bước ra thì thấy 2 người. Một người đạp xích lô và một người mặc áo tù binh. Khi thấy Thầy hai người đều chắp tay:

-        Con chào Thầy.

Biết học trò mình, nhưng  hai người già và thay đổi nhiều quá.

-        Con là Xuân, cấp bậc đại úy Biệt Động Quân mới được ra tù 3 tháng nay. Hiện đang bị quản chế. Thưa Thầy, hôm khác con đến thăm thầy, vì đến giờ phải trả xe. Con thuê xe tính theo giờ. Lâu nay con không dám đến vì sợ liên hệ đến Thầy.

Anh tuyên úy, cứ ở chơi với Thầy. Sáng 5 giờ tôi đến chở anh ra xe lửa, đừng lo vụ tiền bạc, cùng là học trò của Thầy mà.

 

Người kia là thầy tu ở Viện Phật Học Nha Trang, học trò của Thầy. Sau này là tuyên úy Phật Giáo cấp bậc trung úy.

Thầy tuyên úy từ Bắc được tha về, đến Nha Trang muốn ghé thăm Thầy. Vì thầy tuyên úy người miền Nam, khi tu bị đổi ra Nha Trang. Nếu về trong Nam không có dịp ra lại.

Thầy hỏi thăm thì ngoài Bắc, thầy tuyên úy này cấp bậc nhỏ nhất nên ở tù 8 năm. Còn từ đại úy lên đến trung tá dù tuyên úy Phật giáo hay các tuyên úy tôn giáo khác không biết lúc nào về, vì Thầy có hai người bạn tuyên úy cấp bậc rất cao nên chẳng biết bao giờ được tại ngoại.

Tôi thưa Thầy:

-        Lúc sáng ghé chợ Đầm, con có gặp mấy người bạn cũ.  Con muốn mời Thầy và các bạn cùng ra biển uống nước và nói chuyện, Thầy thấy được không?

-        Không nên con à. Ai muốn thăm Thầy thì đến nhà.

 

Tôi cũng đã nghe Thầy bị công an mời thầy lên phường hỏi về bài viết (Trận Đòn Hòa Giải), đó là bài viết nói về 3 người con Thầy nhưng công an không chịu đọc bài viết mà cứ kêu thầy lên điều tra.

 

Lúc từ giã Thầy, nghe Thầy nói mà đau lòng.

-        Bây giờ con kiến nó cũng ăn hiếp Thầy được.

 

Qua Úc, tôi gặp lại Võ Thi người Vạn Giả. Học cùng với tôi mà lại cùng khóa không quân với chồng tôi, nên chúng tôi rất thân nhau. Hai đứa học trò cũ cùng viết thư về thăm Thầy Võ Hồng.

Thầy nói được thư của hai học trò cũ cùng một phong bì,  Thầy cảm động quá khi biết chúng tôi thân nhau.

 

Thầy vào trường Lê Quí Đôn tìm lại hình cũ lớp đệ thất B ngày xưa. Nhìn hình Võ Thi và tôi, một đứa tóc ngắn gần như trọc, một đứa tóc thắt hai bím như con xẩm.

 

Sau 75, sống ở Sài Gòn lo từng ngày nên đầu óc không còn nhớ gì. Nay ở xứ tự do tôi lại nhớ biển, nhớ Nha Trang thật nhiều.

Một hôm cả gia đình đi biển, tôi ào chạy xuống định bơi cho nước biển ôm tôi như ngày xưa. Nhưng tôi khựng lại và chạy lên bờ tìm khăn quấn quanh người vì nước biển ở  Melbourne lạnh như nước đá.

Tôi viết thư cho Thầy nói như vậy. Thầy an ủi và thương tôi vô cùng.

Rồi tôi cũng tìm được ở Queensland, nơi một hòn đảo, nước biển ở đó ấm như biển Nha Trang. Cũng bãi cát trắng cùng hàng dừa dưới trời xanh. Ngoài khơi vẫn có nhiều ánh đèn ban đêm như phố biển Nha Trang ngày nào. Trên đảo còn có những động cát cao như Hòn Khói quê tôi.

Tôi cũng viết thư kể cho Thầy. Thầy chúc mừng con đã tìm được quê hương Nha Trang của mình trên xứ Úc, quê hương thứ hai của con. Vô cùng diễm phúc!

 

 Bốn đứa học trò nhỏ ngày xưa mỗi đứa ở mỗi nơi. Tôi ở Úc. Yến, Oanh ở Mỹ nhưng 2 tiểu bang khác. Minh Châu ở Canada.

 

Tôi sống thật hạnh phúc bên chồng con. Tôi nghĩ nơi quê nhà Thầy cũng hạnh phúc vì luôn bận rộn đón học sinh cũ từ những trại tù cải tạo trở về thăm Thầy, rồi những năm sau, Thầy lại vui vẻ tiễn đưa những gia đình đó đi diện HO và đi đoàn tụ.  

 

Tôi biết các con Thầy đã ra nước ngoài học trước năm 1975 rồi. Nhưng tôi thật ngu ngơ không biết Thầy đã tiễn chân hết những gia đình học trò cũ đi HO và đi đoàn tụ. Đâu còn ai bên cạnh Thầy nữa! Có chăng là những cánh thư từ xa gởi về thôi.

 

Khi hay tin Thầy mất, năm 2015 tôi có trở về lại Nha Trang, nhưng không đến đường Hồng Bàng để thắp một nén nhang cúng Thầy, mà tôi ra ngồi ở biển, nhớ và nghĩ nhiều về Thầy, thương và cảm ơn Thầy, người đã dìu dắt chúng tôi thời thơ ấu.

Thầy ơi, con không ngờ Thầy cô đơn như vậy, con xin lỗi Thầy!

Cầu mong vị Thầy có bản tánh bao dung lịch sự, chỉ biết sống cho người khác, được về cõi bình yên. 


vo-hong_2

chung_toi_co_matchung toi co matKính mời xem tiếp

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2021(Xem: 11371)
Nói thiệt lòng, tâm trạng của tôi mấy ngày qua vô cùng... bất ổn, tinh thần có chiều xuống dốc, phần vì "thử thể bất an", phần vì chuyện đời có nhiều đột biến vào năm cùng tháng tận, đã bình thản đương đầu đối chọi bằng các phương pháp tu niệm hành trì, giữ niềm tin vững chãi, liên tục ra vào các chốn già lam để lễ Phật bái Tăng, tác nghiệp thi văn... nên chế ngự được nhiều chướng duyên nghịch cảnh, nhưng nghiệp duyên quá khứ vẫn còn đầy dãy, vẫn đến đó, vẫy tay cười chào như chế giễu, thử thách...
30/01/2021(Xem: 6319)
Thời gian gần đây có khá nhiều nhà văn quay về với đề tài lịch sử. Sự đi sâu vào nghiên cứu cùng những trang viết ấy, họ đã tái hiện lại một triều đại, hay một giai đoạn lịch sử với góc độ, cái nhìn của riêng mình. Tuy nhiên, không phải nhà văn nào cũng thành công với đề tài này. Gần đây ta có thể thấy, Hoàng Quốc Hải với hai bộ tiểu thuyết: Tám triều nhà Lý, và Bão táp triều Trần, hay Hồ Qúy Ly của Nguyễn Xuân Khánh…Và cách nay mấy năm, nhân kỷ niệm lần thứ 40, ngày thành lập Báo Viên Giác (Đức quốc) Hòa thượng Thích Như Điển đã trình làng cuốn tiểu thuyết lịch sử: Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa. Thật ra, đây là cuốn (tiểu thuyết) phân tích, lời bàn về lịch sử thì chính xác hơn.
19/01/2021(Xem: 24806)
Đức Phật Quá Khứ Tỳ Bà Thi 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Ba, 07/07/2020 (17/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. Bài kệ số 16: ĐỨC PHẬT TỲ BA THI 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Nhẫn nhục đệ nhất đạo Phật thuyết vô vi tối Xuất gia não tha nhân Bất danh vị sa môn. Nhất tâm đảnh lễ Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật. (1 lạy) Phật dạy: Hạnh nhẫn nhục Là pháp tu thứ nhất, Pháp vô vi tột cùng. Cho nên người xuất gia Gây khổ não cho người, Thì không gọi “sa môn”. Một lòng kính lạy đức Phật Tì Bà Thi. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia)
18/01/2021(Xem: 9120)
Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh tồn và phát triển. Dân tộc Việt Nam là một chủng tộc có ngôn ngữ riêng biệt thuần nhất, có nền văn hóa nhân bản đặc thù, siêu việt và nền văn hóa này có khả năng chuyển hóa, dung hợp tinh ba của tất cả nền văn hóa nhân loại biến thành chất liệu sống và ý nghĩa sự sống bồi dưỡng cho sanh mệnh dân tộc mang tánh chất Rồng Tiên nẩy nở phát triển và trường tồn bất diệt trải dài lịch sử hơn bốn ngàn năm văn hiến kể từ khi lập quốc cho đến ngày nay. Đặc tánh Rồng Tiên, theo Hai Ngàn Năm Việt Nam Và Phật Giáo của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng Tộc Việt Nam), dân tộc Việ
10/01/2021(Xem: 5689)
8 giờ tối mùa Đông Âu Châu nói chung, Thụy Sĩ nói riêng thật thê thảm. Trời tối đen, lạnh cóng, trên đường không bóng người qua lại. Đã vậy thêm dịch bệnh covid 19 kéo dài mấy tháng nay, mọi người bị giam hãm lâu ngày đã ê chề, nay thời tiết như thế càng ảm đạm thê thảm hơn. Vào mùa này, ngay cả người bản xứ còn than vãn, chán chường, huống chi người Việt tha hương buồn đến...thúi cả ruột! Gần nhà tôi có cái thung lũng tình yêu, gặp lúc thất tình, tuyệt vọng, có người còn nhảy xuống tự tử mắc công chính quyền sau này phải giăng lưới hứng họ! Nhưng chính trong không gian ảm đạm như thế càng tăng thêm sự ấm áp thân thương khi nhìn thấy, dù chỉ qua màn hình và nghe tiếng nói của vị đạo sư tôi hằng kính mến, không ai xa lạ, còn có nhân duyên quen biết từ mấy chục năm nay, đó là Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển. Thầy không ở đâu xa, hiện diện ngay trước mặt đây thôi xua đuổi hết bao cảm giác cô đơn lạnh lẽo nơi xứ người.
10/01/2021(Xem: 5561)
Đã lâu lắm rồi, từ lúc cơn dịch Covid-19 hoành hành đến giờ chúng tôi (Hoa Lan và Nhật Hưng) chưa được cùng nhau viết chung một đề tài về Phật pháp. Tưởng chừng ngòi bút sẽ rỉ mòn theo Covid, làm gì còn các khóa tu học mà viết bài tường thuật. Một nỗi buồn sâu lắng! Thế nhưng sáng nay, ngày thứ hai đầu tiên trong năm 2021 mùng 4 tháng giêng, nhận được tin nhắn khẩn cấp của Nhật Hưng qua Viber, phải gắn chương trình Zoom vào máy để tối nay lúc 8 giờ tối giờ Âu Châu nghe HT Sư Phụ giảng Pháp. Không cần biết Người sẽ cho mưa Pháp kiểu nào? Nghe lệnh là phải có mặt ngay, để chứng tỏ tinh thần Tứ Trọng Ân với Thầy Tổ.
09/01/2021(Xem: 7293)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
06/01/2021(Xem: 2835)
Một mùa Xuân lại trở về, gom những hơi ấm tình người giữa vùng biên giới Việt- Trung, đốm lửa Hồng sưởi ấm trái tim anh trong từng hơi thở. Xín Mần ơi, nơi biên cương Tổ Quốc thân yên, vùng biên giới giữa cái nhìn bao bọc xung quang chín tầng mây, chín tầng ngọn núi bao bọc. Năm 2021, Nhân duyên trở về xã Xín Mần- huyện Xín Mần - tỉnh Hà Giang. Trời lạnh hơn 04h30 sáng ngày 01/01/2021,
05/01/2021(Xem: 10907)
Vì con phải đợi nghe hết giây phút sau cùng của chương trình online ...con ( Phật Tử Huệ Hương ) mới có thể bày tỏ sự hân hoan và pháp lạc giống như Cô Chơn Hạnh Tịnh đã tri ân Ôn và cũng kính xin phép Ôn cho con trình bày những gì con đã thọ nhận từ Ôn qua bài pháp thoại tuyệt vời này . Theo thiển ý của con qua lời pháp nhủ ban đầu với đề tài “ Tu tập làm sao để được an lạc “ Ôn Như Điển muốn truyền tải suối nguồn Đạo Pháp về Tứ Vô Lượng Tâm ( TỪ, BI, HỶ, XẢ ) đến cho những ai muốn đi bước vào con đường Phật Thừa ( không cần biết người đó đang theo Tiểu Thừa , Nguyên Thuỷ hay Đại Thừa..) . Điểm rốt ráo sau cùng phải là Giải Thoát sinh tử và thấy được Ông Phật bên trong của chúng ta ...
05/01/2021(Xem: 9898)
Thiền sư, thi sỹ, nhạc sỹ, họa sỹ, cuồng sỹ, du sỹ, lang thang sỹ, văn nghệ sỹ tự thuở nào đi về thấp thoáng, nhấp nhô trong sương mờ vạn cổ. Từ buổi mới khai thiên lập địa lúc ban sơ, nguyên thủy đến bây giờ, họ đã ra đi và đi mãi trên con đường mây trắng, con đường sáng tạo vừa lao đao, khổ lụy vừa hùng tráng, thênh thang, vượt qua mộng thực đôi bờ sinh tử, bằng một bước nhảy trọng đại, xuất thần nhập thánh đáo thiên tiên. Huyền cảm tự do, họ thuận nhiên về trên cuộc lữ phong trần giữa một chiều diệu hóa hay một đêm trăng sao ảo huyền cùng tao ngộ bên “thềm cô phong tuyệt đỉnh hội mây ngàn” và hòa âm cung bậc với toàn thể cuộc đời. Đó là thể điệu chịu chơi Cưỡi Sóng Phiêu Bồng mà nhà thơ Thái Huyền đã hý lộng hát ca Khúc Lý Lả:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]