Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kiều Kinh

20/03/202219:27(Xem: 5625)
Kiều Kinh

 

 kim van kieu

 

 


KIỀU KINH

(Tu là cội Phúc...)

... Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên...
(Đoạn Trường Tân Thanh – Nguyễn Du)

Ninh Giang Thu Cúc







LỜI THƯA CÙNG QUÝ ĐỘC GIẢ


Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị.
Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng...
Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.

Với “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” tôi đã đồng cảm sẻ chia nỗi khổ niềm đau với người đàn bà bạc mệnh Thúy Kiều... Nhưng tôi nghĩ vẫn chưa đủ; bởi sau cuộc đoàn viên với gia đình và Kim Trọng, Thúy Vân đã “bàn giao” Kim Trọng cho chị để gọi là châu về hợp phố, có thể Thúy Vân chỉ vì cảm thương tình cảnh của chị mình chứ với “bản năng sở hữu”, chắc gì Vân đã thật lòng nói lời “trao trả”... Phần Thúy Kiều bằng sự trải nghiệm phong trần mười lăm năm với bao sự, bao tình, đã cho nàng một vốn sống đủ để chối từ lời đề nghị nối lại tình xưa với chàng Kim bằng chính lòng tự trọng; và cả sự xấu hổ về quá khứ nhục nhằn của bản thân chứ trong sâu thẳm tâm tư Thúy Kiều - mối tình đầu với Kim Trọng dễ gì phai nhạt?!
Bây giờ gặp lại cố nhân với “phấn thừa hương cũ bội phần xót xa” chỉ gây sự khó xử cho cả ba người, hai người đàn bà đáng thương nầy đều mang nỗi mặc cảm khác nhau, họ phải nhìn nhau để ứng xử từng ngày trong mối tương quan; làm sao tránh khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến bao điều vi tế trong đời sống vợ chồng, giữa Thúy Vân Kim Trọng, Thúy Kiều Kim Trọng. Trong vụ việc nầy chỉ có Kim Trọng là người thụ hưởng tất cả mọi sự lợi lộc, cụ Nguyễn thiên vị đàn ông nhiều quá?! Chúng tôi có suy nghĩ; để bảo vệ tình cảm máu thịt của hai chị em Thúy Vân – là Thúy Kiều nên xuất gia cửa Phật để tu trì, sám hối những oan nghiệt trong quá khứ, hiện tại, vị lai, đó là cách tốt nhất cho thân, tâm Thúy Kiều, trả lại sự bình yên cho Thúy Vân trong cuộc đời làm vợ Kim Trọng để hai người đàn bà cùng thoát cảnh:
“... Cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng...”
(Hồ Xuân Hương)
Cụ Nguyễn Tiên Điền đã chẳng từng khẳng định “Tu là cội phúc tình là dây oan” và đã dọn dẹp cho Thúy Kiều đời sống “Mùi thiền đã bén muối dưa. Màu thiền tính vốn quen ưa nâu sòng” đó sao?!
Vậy Kiều Kinh của kẻ hậu sinh, hậu học nầy đã đáp ứng đúng nguyện vọng của tiền nhân; hẳn cụ bằng lòng cho con làm việc ấy. Xin kính vọng đến anh linh Nguyễn Tiên Điền muôn vàn sự yêu kính con dành cho cụ.
Với một trăm tám mươi hai (182) câu lục bát – xin nguyện cầu Thúy Kiều được đến bến bờ giải thoát.
“... Lạ thay vừa bén mùi thiền
Mà trăm nảo với ngàn phiền sạch không”
(Chu Mạnh Trinh)
Và trong nỗi khổ chung của chúng sanh, nguyện hồi hướng công đức cho toàn thể nhân sinh trên hành tinh nầy không còn hận thù chia rẽ màu da sắc tộc, dị biệt tôn giáo khi tất cả mọi người đều có chung “Máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”. Mong thay!

Trân trọng
Ninh Giang Thu Cúc

Ninh-Giang-Thu-Cuc-vh-saigon
Nhà nghiên cứu Ninh Giang Thu Cúc




KIỀU KINH

Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá
Lệ lòng mong cạn chốn am không
Cửa thiền một đóng duyên trần dứt
Quên hết người quen chốn bụi hồng
(Bến giác – J.Leiba)

I - Am tranh lều cỏ sớm trưa
Nâu sòng đạm bạc muối dưa tịnh lòng
Qua rồi năm tháng long đong
Oan khiên rửa sạch thong dong cõi miền
Gieo duyên – khoác áo “Trạc Tuyền”
Mầm lành hé nhú – giữa miền trần lao
Nghiệp căn còn mãi lao xao
Phải tay Bạc Hạnh lại vào lầu xanh.

II - Ngược dòng về tuổi thanh tân
Nữ lưu phong vận hồng quần băng trinh
Sắc tài năm ngón tay xinh
So dây nắn phím tơ tình đa đoan
Cung cầm nửa khúc tân toan
Bằng như mệnh nghiệp mang mang đợi chờ
Thật ư – mà tưởng như mơ
Tiết Thanh Minh ấy cập bờ tơ duyên
Tim son loạn nhịp đầu tiên
Môi hồng nở nụ thơm hiền đoan trinh
Thoắt nhiên tình lại gặp tình
Như là đã hẹn ba sinh thuở nào
Lên yên Kim vẫy tay chào
Khuê phòng trở gót Kiều nao nao buồn
Giã từ chưa tỏ ngọn nguồn
Mà sao lòng cứ vấn vương chút gì
“... Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không...”
Ngẩn ngơ lòng lại hỏi lòng
Ai kia nào có trông mong như mình
Bâng khuâng quay ngựa thư phòng
Chàng Kim xao xuyến ước mong tương phùng
Dáng ai tha thướt hình dung
Gót sen uyển chuyển làm rung tơ lòng
Dung nhan kiều mị sáng trong
Thu ba sóng gợn trăm vòng hồ thu
Phòng văn ca khúc tương tư
Sáng chiều thơ thẩn áng thư đứng ngồi
Nhìn đâu cũng thấy bóng người
Giọng oanh thỏ thẻ nói cười đoan trang
Nghĩ suy tìm cách lần sang
Mái đông hiên Thúy ngàn vàng đặt thuê
Cầu mong gần được tường khuê
Mặt nhìn tỏ mặt lòng mê mẩn lòng

Hoàng hôn gặp buổi thong dong
Thúy Kiều dạo gót tường đông ngắm trời
Thoa vàng vướng cánh đào tươi
Vô tư nàng vẫn rong chơi chẳng nhìn
Bên hiên Lãm thúy chàng Kim
Đêm ngày ước nguyện được nhìn dáng ai
Sáng mai dạo bước tường ngoài
Nhìn sang vườn Thúy ai hoài nhớ thương
Hoa đào thoang thoảng đưa hương
Trên cành bỗng thấy vướng vương vật gì?
Vội vàng Kim nhón chân đi
Tìm thang bắt vội ngại chi hiểm nghèo
Trân châu báu vật đây rồi
Của đây người đấy bồi hồi thiết tha
Tường xuân kín cổng cao tòa
Tin xuân đâu dễ lọt qua trướng hồng
Âm thầm sáng ngóng chiều trông
Thoa vàng càng ngắm càng mong gặp người
Lòng đang tưởng một nhớ mười
Vườn bên nghe vọng tiếng cười xôn xao
Kim mừng khấp khởi nôn nao
Vội vàng sửa áo ra chào giai nhân
Hai bên giáp mặt tần ngần
Mừng nầy đã thỏa bao lần ngóng trông
Chàng Kim cất tiếng thưa, vâng
Kim thoa nhặt được rày mong mai chờ
Thật đây mà tưởng như mơ
Châu về hợp phố xin nhờ trao tay
Thúy Kiều muôn đội ơn may
Kim càng luống cuống càng say men tình
Tay ngà năm ngón nuột xinh
Nâng niu trâm ngọc ân tình cưu mang
Kim Kiều hạnh ngộ hân hoan
Đổi trao kỷ vật xuyến vàng khăn thêu
Vượt rào thề ước trăm điều
Thơ đề, tranh họa, vách treo nguyệt cầm
Tay tiên dạo phím tơ đồng
Khúc khoan khúc nhặt sầu đong lệ nhòa
Cung cầm năm bậc mưa sa
Buồn lên chất ngất cỏ hoa úa màu
Năm canh tròn giấc mộng đầu
Duyên trong nghĩa trọng ngọc châu sáng ngời
Chia tay bịn rịn khóc cười
Bình minh ló dạng – tiếng người gọi sang
- Cậu về lo việc hộ tang
Ông bà đã sẵn – đường sang quê người
Liêu Dương – thúc phụ qua đời...
Hiếu, tình, cách trở rã rời lòng Kim...

Nổi nênh chút phận thuyền quyên
Tai ương dồn dập ngày đêm đọa đày
Nỗi nhà ách nạn oan đầy
Nỗi mình tình nặng sâu dày biển non
Trăm năm thề nguyện vuông tròn
Nào hay oan khốc tình son lỡ làng
Đành thôi ngọc nát vàng tan
Bút đau vĩnh biệt Kim lang mấy hàng
Quay lưng hứng chịu bẽ bàng
Gia hương đạo trọng ngàn vàng dễ mua
Thương cha tuổi tác già nua
Đem thân báo đáp ân thừa – cao sơn
Đắng cay bao nệ thiệt hơn
Thung huyên gia đạo an yên là mừng
Chén buồn đưa tiễn ngập ngừng
Đất trời chớp giật đùng đùng bủa vây
Thương sao thân phận bèo mây
Dữ nhiều lành ít vần xoay nghiệp trần
Sa vào lưới nhện căn phần
Đoạn trường lăn lóc mấy lần hồng nhan
Đọa đày nát ngọc tan vàng
Bèo mây trôi dạt lầm than đất người
Bao phen mưa dập sóng dồi
Tấm thân luân lạc nổi trôi sớm chiều
Cực lòng tạm khoác phong phiêu
Mưa chan gió táp lạnh xiêu vóc gầy...

III- Quay đầu nương tựa am mây
Rũ thân bụi bặm bủa vây hồng trần
Quy y Tam bảo hồng ân
Tam quy ngũ giới thành tâm thọ trì
Từ đây dứt bỏ tham si
Nâu sòng đạm bạc đứng đi nhẹ nhàng
Mõ chuông kinh kệ lời vàng
Pháp âm rót mật hàng hàng âm ba
Muối dưa chay tịnh ngày qua
Tâm kinh bát nhã an hòa thân tâm
Thất tình lục dục giảm dần
Bờ mê trở gót đến gần đài sen
Tuệ quang bừng sáng ánh đèn
Soi pho kinh điển bao phen đêm dài
Kiếm Văn Thù chặt mê sai
Kim Cang diệu hữu cho ai kiên trì
Thủy Sám lạy đấng từ bi
Lương Hoàn sám hối những gì nghiệt oan
Trải nhiều kiếp nạn tân toan
Thành tâm hóa giải muôn ngàn nghiệp xưa
Từ đây tạnh gió tan mưa
Nhân lành gieo giống chẳng chừa nhỏ to
Yêu người yêu vật chăm lo
Con sâu cái kiến chẳng cho diệt trừ
Nhiếp tâm mở rộng lòng từ
Bốn phương ba cõi xem như một nhà
Thương người xuôi ngược bôn ba
Tuổi cao sức yếu không nhà cô đơn
Ấp yêu xoa dịu tủi hờn
Miếng cơm manh áo qua cơn ngặt nghèo
Thương người vất vả gieo neo
Sẻ chia khó nhọc trèo đèo vượt sông
Giúp người bất kể sơ thân
Nguyện xin trang trải nợ nần kiếp xưa
Thương yêu nói mấy cho vừa
Trải lòng nhân ái sớm trưa tô bồi
Ngược xuôi bao độ luân hồi
Bao phen chìm nổi bao lời thị phi
Giờ xin giọt nước dương chi
Rửa tâm sạch mát sân si xa lìa
Quá khứ khép cửa sau kia
Mắt nhìn hiện tại đong chia mấy phần
Tương lai đừng vọng xa gần
Sinh linh bao kiếp xoay vần được thua
Nhân gieo quả gặt được mùa
Hồi chuông triêu mộ đuổi xua nghiệp tà
Ung dung bước giữa ta bà
Băng tâm nhất phiến ngọc ngà – Tôi ơi!
Tâm từ vô lượng dâng đời
Tâm bi vô lượng gởi người trần gian
Tâm hỉ vô lượng lạc, an
Tâm xã vô lượng buông ngàn chấp mê
Bốn tâm nương tựa Bồ Đề
Cội nguồn tu tập nương về pháp thân
Tín tâm một dạ chuyên cần
Niết bàn hiện tại cận gần nhân sinh
Mấy lời lập nguyện đinh ninh
Kiều xin huân tập cứu mình: An Vui!
Dám đâu nghĩ chuyện độ đời
Dám đâu nghĩ chuyện xa vời cứu sinh
Mấy câu tâm huyết răn mình
Nhất tâm đảnh lễ chúng sinh muôn loài.

IV - Nguyện cầu nhân loại thái bình
Nhà nhà no ấm đậm tình nước non
Muôn dân một tấc lòng son
Dâng lên Quốc tổ vẹn tròn thảo ngay.

Ninh Giang Thu Cúc



***

facebook

youtube


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7559)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3540)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3490)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11205)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3951)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3444)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10763)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6807)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12378)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4252)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]