Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Năm Dần Nói Chuyện Con Cọp

13/02/202212:25(Xem: 6249)
Năm Dần Nói Chuyện Con Cọp



NĂM DẦN NÓI CHUYỆN CON CỌP

Hiện nay chúng ta đang có 2 cách tính thời gian theo : Âm Lịch và Dương Lịch. Phương Tây và nhiều nước trên thế giới sử dụng Dương Lịch, lịch này tính theo chu kỳ tự quay xung quanh trục mình của Trái Đất và Trái Đất quay xung quanh mặt trời. Trong khi đó cách tính Âm Lịch sử dụng Can Chi, bao gồm thập Can và thập nhị Chi. Trong đó, 10 Can gồm: Canh, Tân, Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ được tạo thành từ Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. 12 Chi được lựa chọn từ các con vật gần gũi với con người hoặc thuần dưỡng sớm nhất. Có một sự khác nhau trong 12 Chi giữa Âm Lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,.... đó là Chi thứ 4 là con Mèo hay con Thỏ. Ở Việt Nam, 12 con giáp gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, tương ứng với 12 con vật : Chuột, Trâu, Hổ, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn. Khi ghép lại sẽ tạo thành 60 năm (bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12) từ các tổ hợp Can - Chi khác nhau, gọi chung là Lục Thập Hoa Giáp. Nhân dịp chúng ta đang đón Xuân Nhâm Dần, xin bàn nơi đây những chuyện tích có liên quan đến Cọp.

Cọp thường ở nơi rừng núi, săn mồi vào ban đêm, cạnh bờ nước, bắt những loài vật lớn, có vú như trâu bò rừng, nai, heo, nhiều khi loài người cũng là con mồi của cọp. Cọp bắt mồi bằng cách cắn vào  gáy, hay cắn cổ hút máu cho đến khi con mồi kiệt sức. Cọp mạnh mẽ, nanh vuốt nhọn, hầu hết loài động vật đều phải sợ nên Cọp là chúa tể rừng xanh. Dân quê ngày xưa, vì thiếu vũ khí hiệu lực để tự vệ, sợ hãi hay cữ không dám gọi tên mà phải dùng những danh xưng cao nhất được dành cho hổ như Sơn quân chi thần, Sơn quân chúa xứ, Sơn quân mãnh hổ, Sơn lâm chúa tể, Sơn lâm chúa xứ, Sơn lâm đại tướng quân, Sơn quân chúa động, Chúa xứ sơn lâm, Mãnh Hổ, Thần Hổ, Ông, ông Thầy, ông Cả, Ngài, ông Ba Mươi, Hương quảnÔng Thiêng... Muốn cho con nín khóc, dân quê thường đem cọp ra hù doạ: “Con khóc, cọp nó nghe nó về thì khốn”. Cọp còn cho là linh thiêng nên được vẽ lên tường, hay đắp nổi nơi đình, chùa, và cũng có bát nhang cúng bái. Cọp hay Hổ nhờ vậy là biểu hiệu cho thành công, thống lĩnh nên ta thấy các thương hiệu như “Dầu Cù-Là Con Cọp”, “Bia Con Cọp”, dầu xăng Con Cọp (Exxo), Giải bóng đá Đông Nam Á gọi là Tiger Cup. Cọp cũng được đề cập đến nhiều qua tranh dân gian (tranh Đông-Hồ). Giới tử-vi cho rằng người nam nào sinh năm cọp, tuổi Dần đều kiên cường, có oai phong, không dễ khuất phục. Trước đây có những người không thích các cô tuổi Dần vì sợ sẽ dữ như cọp hoặc người nữ tuổi Dần sẽ cao số, tình duyên trắc trở,khó nuôi con, phải lập gia đình trễ mới yên lành.

Trong văn chương Việt Nam, cọp, hùm, hổ được nói nhiều dưới hình thức so sánh, ẩn dụ để đưa ra những bài học cuộc sống, những ngụ ngôn sâu xa :

Trước hết hình ảnh Cọp dung để mô tả cái oai, sự mạnh mẽ, khiến các loài khiếp sợ của “hổ tướng” dũng mãnh, can trường, bách chiến bách thắng. Nơi đại bản doanh để chủ soái và các tướng bàn bạc việc quân gọi là “hổ trướng” nơi đó thường vẽ con cọp ở giữa để tượng trưng uy quyền và khí thế mạnh mẽ. Soái ấn của một vị tướng là “Hổ Phù”. Dưới trướng của Lưu Bị thời Tam Quốc Diễn Nghĩa có ngũ hổ tướng là : Quan Vũ, Mã Siêu, Trương Phi, Hoàng Trung và Triệu Tử Long. Thật thú vị khi có những võ tướng giỏi có thể tay không đánh cọp như “Võ Tòng đả hổ” hoặc nữ tướng Bùi Thị Xuân. Cuộc chiến cân sức giữa hai thế lực mạnh mẽ quyết liệt gọi là : “Long Tranh Hổ Đấu”.Trường hợp cha truyền con nối, có sự kế thừa xứng đáng thì được gọi là : “hổ phụ sinh hổ tử”, ví dụ Quan Vân Trường có 2 người con hào kiệt là Quan Bình và Quan Hưng nối nghiệp Cha. Ngược lại có trường hợp Cha giỏi giang mà con cái lại tệ hại gọi là “hổ phụ sinh khuyển tử” như con của Lưu Bị ( Lưu Thiện – A Đẩu) và con của Lê Hoàn (Lê Long Đĩnh).

Thành ngữ : “Râu hùm, hàm én mày ngài” để chỉ cho vẻ kiêu hùng uy dũng của võ tướng.

Cọp ăn thịt các loài khác, ăn nhiều để nuôi dưỡng cơ thể to lớn khỏe khoắn của mình, nên giới nam ăn nhiều hơn giới nữ, được ví là : “Nam thực như hổ, nữ thực như miêu” (nam ăn như cọp, nữ ăn như mèo). Sức mạnh của cọp được đề cập đến trong văn chương là : “Bạo âu như sói, mạnh âu như hùm” (sách Thiên-Nam). Cọp mạnh mẽ nhất nhưng chưa phải là khôn ngoan nhất. Tại sao con người với bản năng bẩm sinh không phải là khỏe mạnh nhất lại có thể chinh phục được bao nhiêu loài thú dữ, mạnh hơn mình nhiều lần? Đó chính là nơi bộ não, con người khôn hơn con vật. Sức mạnh thời nay không phải nằm ở nơi cơ bắp mà chủ yếu là nằm ở bộ não, ở trí khôn. Trong sách Giáo Khoa cấp I có câu chuyện : “Trí Khôn của Ta đây”, qua đó giải thích tại sao Trâu khỏe hơn người nhưng phải chịu kéo cày và sai khiến của con người và con hổ bị con người dọa và dạy một bài học ra trò. Điều này khiến chúng ta liên tưởng ngay cả trong các trận đấu võ thuật hoặc chiến trận cũng vậy, trong wrestling hay các trận đấu võ thuật, trí khôn phải được vận dụng tối đa để võ sỹ biết phải đánh như thế nào, né tránh thế nào trước đối thủ và đặc biệt ra trận phải có chiến lược và binh pháp, chứ người “hữu dõng vô mưu” cũng dễ bị thất bại,…

Trường hợp có người mạnh mẽ nhưng bị mắc mưu, bị sa cơ thất thế thì cũng chỉ biết ôm hận thở than như trường hợp Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến chôn chân giữa trận tiền :

Đang khi bất ý chẳng ngờ

Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn

Tử sinh liều giũa trận tiền

Dạn dày cho biết gan liền tướng quân

Khí thiêng khi đã về thần

Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.

Đơn thương độc mã thì khó thắng được thế lực hùng hậu khác, do đó cần phải đoàn kết, đồng tâm hiệp lực với nhau, kẻo rơi vào cái thế : “Mãnh Hổ Nan Địch Quần Hồ” (một con hổ mạnh không đấu lại một bầy hổ).

Gần cọp thì rất nguy hiểm, dễ mất tính mạng. Thời phong kiến ngày xưa, các quan gần vua như gần cọp bởi vì dưới vua có nhiều phe cánh, tranh ân sủng, âm thầm tâu cáo với vua, tố tội lẫn nhau. Nếu chính bản thân vua hoặc bị tác động, nghe lời dèm pha phe cánh khác mà nghi ngờ ai thì người đó bị nguy hiểm, thất sủng, giáng chức, mất mạng hoặc tru di cửu tộc,…

Cũng vậy, đến gân cọp thì nguy hiểm, nên có thành ngữ : “Hùm thiêng nước độc” chỉ cho nơi trùng trùng nguy hiểm đe dọa tánh mạng. Thi sỹ Hồ Xuân Hương cũng có lời khuyến cáo Phạm đình Hổ khi ghẹo mình: “chỗ ấy hang hùm chớ mó tay”.  Thế nhưng trong thế chiến với đối thủ, có những người phải làm gián điệp, phản gián, cài vào tổ chức khác, hoặc tìm cách đến gần đối thủ để hiểu rõ hơn về những kẽ hở, nhược điểm của đối thủ, lúc ấy gọi là : “Không vào hang cọp sao bắt được cọp con”?( “Bất nhập hổ huyệt yên đắc hổ tử?”), Có gan dạ mới làm việc liều lĩnh gọi là nhổ răng cọp : “hổ khẩu bạt nha”  (nhổ răng cọp)

Thành ngữ “Hổ đầu xà vĩ” (đầu cọp, đuôi rắn) tương đương với “đầu voi đuôi chuột”, ý nói trước sau bất nhất, không xứng hợp nhau, không thỏa đáng.

“Dưỡng hổ chi họa” nuôi cọp thì có ngày bị hại vào thân ví cho những người nuôi hoặc thuê những thành phần hung dữ để loại các đối thủ và bảo vệ mình, nhưng khó tin tưởng được, có lúc những thành phần đó quay lại hại mình. Ví dụ Đổng Trác nuôi Lữ Bố rồi đến ngày chịu tai hại.

Vuốt râu hùm - xỉa răng cọp” : chỉ cho các công việc nguy hiểm, những ai liều mạng, bất kể mạng sống vì mục tiêu nào đó, kiểu như Kinh Kha đi ám sát Tần Thủy Hoàng, thì mới dám làm.

Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này” : chỉ cho những nơi hiểm độc, hoặc ngôn ngữ, hành động của ai đó tiềm ẩn rất nhiều nguy hại cho người khác.

Đuổi hùm ra cửa trước rước sói cửa sau” : ý nói vừa đuổi được một đối tượng nguy hiểm xong, lại đón một đối tượng nguy hiểm khác vào, cần cẩn thận trong tiếp nhận, kẻo trong nhà, trong công sở, trong tổ chức,... có những thành phần nguy hiểm vào trong đó.

“Hổ thêm cánh” : Trời sanh hùm chẳng có vây

                           Hùm mà có cánh hùm bay lên trời    
            

Ý nói Hùm mà thêm cánh nữa thì không gì chịu nổi, ví cho một thế lực nào đó vốn đã rất mạnh mà lại còn được tiếp thêm những trang bị đặc biệt nữa, thật khó có đối thủ.

“Cáo mượn oai hùm” : ý nói mượn oai của thế lực nào khác chính bản thân mình để ba hoa, phô trương thanh thế, hù dọa những đối tượng khác

Hổ giấy” hoặc cọp vẽ là con cọp làm bằng giấy, vô hại, chẳng làm gì được ai, chỉ để hù ma nhát khỉ như ông nộm bằng rơm.

“Miệng hùm gan sứa”: Kẻ nói miệng thì mạnh bạo, hùng hổ, nhưng thực chất thì nhút nhát, lo sợ, chỉ cố gắng biểu hiện ta đây gan dạ, không lo lắng gì.

“Thả hổ về rừng”:  Đã bắt được đối thủ rồi mà không giam giữ đối thủ lại, thả cho đối thủ về xứ sở, môi trường của họ, đó là việc làm nguy hiểm vì tạo cho đối thủ vốn là kẻ mạnh có điều kiện hồi sinh và chờ đợi ngày đánh trả, phục thù. Trong Xuân Thu Chiến Quốc, Tam Quốc Diễn Nghĩa hay Hán Sở tranh hùng chúng ta thường nghe nhiều câu chuyện về vị quân sư khuyên các vua hoặc sứ quân rẳng : nếu nhân tài nào đó thu phục được thì dùng, nếu không thì giết không thả đi, kẻo sau này trở thành đối thủ gay gắt nhất, quả nhiên là như vậy.

Điệu hổ ly sơn” dụ cọp ra khỏi núi, một sách lược để đối thủ yếu đi, dụ đối thủ ra khỏi môi trường thuận lợi, khiến đối thủ mất uy thế, giảm sức mạnh, ra khỏi vùng an toàn, cô độc đối diện với hiểm nguy.

“Cọp chết để da, người ta chết để tiếng (hổ tử lưu bì, nhân tử lưu danh) : cho dù chết đi vẫn lưu lại tiếng tốt danh thơm cho đời, như danh tướng đời Tống, Văn Thiên Tường cảm khái :

“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”

Dịch:

Xưa nay thử hỏi ai không chết

Lưu tấm lòng son chiếu sử xanh

Tương tự như vậy, Thi Sách phu quân của Trưng Trắc chịu hy sinh trên giàn hỏa của Hán Tướng Tô Định, danh tướng Trần Bình Trọng đời Trần có câu tuyên ngôn bất hũ : “Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc”, thà chết vinh còn hơn sống nhục.

"Họa hổ họa bì nan họa cốt. Tri nhân tri diện bất tri tâm" (Vẽ hổ vẽ da nhưng không vẽ được xương, nhìn người nhìn mặt nhưng không nhìn thấy tấm lòng) , nghĩa của câu này là cho dù ở gần nhau, giao du lâu ngày với nhau, cũng chỉ có thể biết rõ về hình tướng của nhau chứ làm sao thấu rõ lòng của nhau, đánh giá một người qua dánh vẻ bên ngoài dễ bị sai, tương tự như câu ca dao :

"Dò sông dò biển dễ dò,

Mấy ai lấy thước mà đo lòng người?"

Hổ đội lốt thầy tu” : ám chỉ kẻ giả đạo đức, thành phần lợi dụng tôn giáo, mang hình thức thầy tu nhưng làm chuyện bất chánh, độc ác, tai hại.

Hổ dữ không ăn thịt con” : chỉ cho tình phụ tử, mẫu tử thiêng liêng, cho dù một đối tượng nào đó rất xấu xa, hung dữ, tệ hại đến mấy đối với kẻ khác và xã hội, cũng không thể làm tổn hại đến con cái của mình.

“Cọp ăn chay” : ý nói là chuyện không có, đối tượng đó có bao giờ hiền như vậy được vì cọp làm gì có chuyện ăn chay như trâu bò sao được? Thế nhưng ở Bình Định quê tôi có một giai thoại về cọp biết tu :

Thiên Bửu Thạch tự còn có tên gọi là chùa Ông Đá nằm bên sườn Bắc ngọn núi Bà thuộc thôn Chánh Oai, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, Bình Định. Chùa là một hang đá tự nhiên nơi phát sinh câu chuyện vị sư khai sáng chùa ngồi tụng kinh, giọng kinh đã khiến đàn cọp hung dữ sống trong hang đá bên cạnh trở nên lành hiền, thường xuyên ra chùa ngồi lim dim mắt nghe kinh. Chùa Ông Đá được hình thành đã hơn 300 năm, cùng thời với Linh Phong Thiền tự (chùa Ông Núi) ở xã Cát Tiến, huyện Phù Cát.

Tương truyền, ngày ấy dân làng này bị bệnh dịch tả chết vô số. Một hôm, có vị sư phái Mật Tông du hành ngang qua đây, thấy tình cảnh dân chúng như vậy động lòng thương xót bèn ở lại. Vốn có y thuật giỏi, nên vị sư ngày ngày hái thuốc nam chữa bệnh cứu người. Hiện nay, những bậc lão niên ở làng Chánh Oai còn truyền tụng công đức của nhà sư.

Bô lão làng Chánh Oai kể rằng vị sư trên núi Cấm có thể nói cọp nghe. Phía trên hang đá vị sư lập chùa làm nơi tu hành còn có một hang đá khác, nơi cư ngụ của đàn cọp, đầu đàn là cọp bạch rất hung tợn.

Trước kia, dân làng luôn sống trong sợ hãi vì đàn cọp thường xuyên xuống làng quấy phá. Khi nhà sư về ở hang đá bên cạnh, ngày ngày gõ mõ tụng kinh, đàn cọp chẳng những đã không vồ ông mà còn trở nên hiền lành, ngày ngày ngồi quanh hang đá chánh điện để nghe kinh. Từ đó, đàn cọp hết hung hãn, không còn xuống làng quấy phá như xưa. Thậm chí phật tử trong làng lên chùa cúng Phật, đàn cọp trông thấy nhưng không phản ứng gì, hiền như những chú mèo.

Thật đúng là :

 Đạo cao long hổ phục
Đức trọng quỷ thần kinh 

https://nongnghiep.vn/nhieu-cau-chuyen-ky-bi-o-nui-ba-luu-truyen-trong-dan-gian-d215412.html

http://phatgiaobinhdinh.vn/mPost/1072/tieu-su-to-tanh-ban-ong-nui

Trong nhà Thiền có giai thoại về : “Con Cọp Dễ Thương”

Thuở xưa, tại một đồi núi hoang vắng, có một thiền sư sống ẩn dật, tu hành nơi đây. Trong lúc hóa duyên, sư tình cờ gặp đứa bé nằm bên bìa rừng, khóc thét lên từng hồi; động lòng thương xót nên sư đem đứa bé về nuôi dưỡng. Chú bé lớn lên nhờ sự chăm sóc của thiền sư giàu lòng nhân ái, sống giữa rừng núi hoang vu không một bóng người qua lại.

Thắm thoắt 18 năm đã trôi qua, chú bé giờ đây đã lớn khôn nhưng chưa bao giờ giáp mặt với con người. Bạn bè chú là những con thú rừng hiền lành như hươu, nai, khỉ, vượn, và các loài chim chóc khác. Tâm hồn chú trắng tinh như tờ giấy trắng với thiên nhiên đồi núi chập chùng, vui vẻ hài hòa với các loài thú yêu thương bé bỏng trong rừng sâu. Thiền sư thường nói với chú tiểu, ở trên đời này loài cọp là dữ hơn hết, chớ nên gần gũi nó, ai gần là bị nó nhai cho tan xương, nát thịt.

Một hôm, được tin người bạn đồng tu trong cơn bệnh nặng khó qua khỏi, Thiền sư liền quảy túi xuống núi cùng với đệ tử của mình. Chú tiểu chưa bao giờ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, hôm nay được dịp, chú ngắm nhìn đủ thứ màu sắc với nhiều hình ảnh đẹp trong thế giới con người. Trên đường trở về, hai thầy trò tình cờ gặp một thiếu nữ tuổi vừa trăng tròn, dáng người thon thả, xinh đẹp làm sao. Chú tiểu ngạc nhiên nhìn dáng vẻ xinh đẹp của người khác phái một cách say sưa, đắm đuối, đôi mắt chú cứ nhìn chăm chăm vào người con gái ấy như lạc vào mê hồn trận của cõi thần tiên. Thiền sư thấy thế bảo chú đệ tử đi nhanh về núi, kẻo trời tối.

Chú tiểu ngớ ngẫn cả người ra mà hỏi, “dạ thưa thầy, đây là con gì vậy?”

Thiền sư nhanh miệng nói, “cọp cái đó con, đi lẹ lên con ơi, kẻo cọp xơi bây giờ!”. Hai thầy trò cũng đã kịp về đến núi, trước khi trời tối.

Kể từ đêm hôm đó, chú tiểu bắt đầu thao thức, trăn trở không sao ngủ được, chẳng thiết gì đến việc ăn, việc uống. Chú cứ nhớ mãi về hình ảnh con cọp cái đó sao mà dễ thương, xinh đẹp vô ngần, nhất là khi cười để lộ hai hàm răng trắng đều như hạt bắp.

Bị sự dằn vặt bởi sức hấp dẫn lạ kỳ đó, chú tiểu không chịu nổi, cứ nhớ mãi hình ảnh và bóng dáng đó, làm con tim chú rung lên bần bật như muốn vỡ ra, chú ta đành đến thú thật với thiền sư: “Sư phụ ơi, sao con cứ nhớ đến con cọp cái đó quá chừng, thà con tìm gặp nó, để cho nó ăn thịt con cho rồi. Con thà chịu mất mạng, mà trong lòng cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng. Từ nhỏ đến giờ, con chưa từng trải qua cảm giác nhớ nhung, thương yêu, trìu mến, lạ lùng đến thế kia. Dạ thưa sư phụ, con phải làm sao đây?”.

Chú tiểu kia đã bị tiếng sét ái tình làm rung động cả trái tim ngây thơ, hiền lành, chất phát của thuở nào.

Chú tiểu đó có duyên ở núi tu hành, chưa từng biết con người là gì, ấy thế mà khi có duyên sự xuống núi cùng thầy, chỉ một lần thoáng thấy tuy chưa được tiếp xúc, đã ngớ ngẫn người như kẻ mất hồn. Chính vì vậy, ai dính mắc vào luyến ái, đam mê, tham muốn dục vọng, không biết chừng nào mới thoát ra được. Một khi đã nói đến sự luyến ái, tức là sự thèm khát và ham muốn về ái dục. Đã là con người, thật khó có thể thoát ly vĩnh viễn được ái dục, ngoài trừ các vị đại Bồ tát. Chính vì vậy, Phật đã đưa nhiều hình ảnh thí dụ sống động về sự tác hại của ái dục, mà khuyên người xuất gia phải cố gắng tu học cho tốt, để vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Bản năng tình dục, tình yêu, của Ái rất là lớn lao, nhất là Ái giữa nam và nữ, huân tập từ vô thủy đến nay thật là : “Ái bất trọng bất sinh Ta Bà” ( nếu Ái không nặng thì không sinh cõi Ta Bà), chúng ta đang sống trong cõi dục, nhưng cần vươn lên, thoát ra ngoài vòng kiềm tỏa của dục vọng thường tình để được giải thoát như Bồ Tát Tất Đạt Đa hay Nan Đà phải lìa vợ đẹp xuất gia, cắt ái mới thành tựu Thánh quả.

 

Trong sinh hoạt cuộc sống hàng ngày, con người nên thức dậy vào giờ Dần :

Một năm là mấy tháng xuân

Một ngày là mấy giờ Dần sớm mai (ca dao)

Nhứt niên chi kế tại ư Xuân,
            
Nhứt nhựt chi kế tại ư Dần.
一日之    
Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, nhơn sanh ư Dần”天開於子地藉於丑人生於寅.

Nghĩa là : Giờ Dấn buổi sáng (từ 3h – 5h), là giờ rất tinh khôi, người siêng năng nên thức dậy từ giờ Dần để bắt đầu ngày mới, tỉnh táo, hoạch định kế hoạch cho một ngày, giấc ngủ tốt nhất chẳng hạn là từ 10h đêm cho đến 3h sáng. GIữ thói quen lành mạnh như vậy, người ấy dễ thành công :

Xem cái cách săn mồi của cọp : núp kỹ, che giấu mình, kiên nhẫn đợi chờ cơ hội và tấn công đúng lúc điều này khiến chúng ta rút ra bài học cho cuộc sống : phải biết kiên nhẫn, đợi thời cơ và nắm bắt đúng thời cơ thì mới thành công, dục tốc bất đạt (nóng nảy mong xong việc sớm thì chẳng thành công)

Đọc trong kho tàng văn học Việt Nam, tôi rất thích bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ, nhân đây, chúng ta cùng lắng lòng nghe lại tâm sự của một con cọp trong vườn bách thú :

Một con Cọp gặm mối khối tâm hồn lớn lao, không làm sao tiêu giảm được vì ở trong cũi sắt, vì sa cơ thất thế, vì bị nhốt, mất tự do, bao đối thủ chế nhạo, coi thường mình :

Gm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm

Con cọp mang đầy tâm sự xót xa khi bị sa cơ, bị giam nhốt, nó chỉ là thứ trò chơi tiêu khiến và lúc đó thì nó có gì khác biệt với bao loài thú khác như là gấu hay báo,….? Cái khổ của thể xác bị giam nhốt, ăn uống ngủ nghỉ khó khăn, lại nhân lên gấp bội với cái khổ của tinh thần bị tủi nhục, giày vò, họ cười cợt tìm niềm vui trước nỗi đau khổ của mình :

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Đời người cũng vậy, ai không trải qua những thăng trầm trong cuộc sống, rồi khi bệnh, khi già, khi đối diện với cái chết, có nhiều hoàn cảnh bất như ý và lực bất tòng tâm, lúc ấy tâm lý con người thường sống với hoài niệm về một quá khứ huy hoàng, oanh liệt, một thời tung hoành thỏa thích, giờ thì lực bất tòng tâm, sống trong cảnh éo le, khập khiễng, ngậm ngùi… Đời vốn vô thường, lên voi xuống chó là vậy :

 

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Trong ký ức của con cọp, nó nhớ tha thiết đến những hình ảnh cụ thể, rõ mồn một, đầy ấn tượng về bờ suối, ánh trăng, ngày mưa, bình minh, cây xanh, chim ca, mặt trời,…thật lung linh, sống động và mơ mộng. Cuộc sống là vậy, cần có một quá khứ để tự hào, một hiện tại với nhiều niềm vui và việc làm ý nghĩa, một tương lai hé lộ tươi sáng. Thế nhưng với con cọp trong vườn bách thú : hiện tại thì phũ phàng, tương lai mờ mịt, không biết giam cầm để mua vui cho đến bao giờ? Thật là éo le, bi kịch đáng thương! Giấc mơ thì đẹp lắm, khi mở mắt ra phải đối diện với thực tại phũ phàng. Đời không như là mơ nên đời thường giết chết mộng mơ!

 

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Thảo cầm viên có thể là đẹp với các du khách nhưng với con cọp thì đó là những cảnh giả dối, nhân tạo, đáng khinh. Cọp đã quen với cái hùng vĩ, kỳ bí, thiêng liêng, bạt ngàn chứ không phải cảnh tầm thường, thấp kém như vậy. Nơi đó quá chật hẹp đối với vị chúa tể rừng xanh :

 

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Cho dù sống với thực tại khổ đau, ngục tù, cọp vẫn yêu quê hương, non nước, xứ sở của nó tha thiết, tất cả vẫn sống trong tâm khảm, máu thịt của nó, tâm hồn nó mãi vấn vương trở về với quê hương, nơi mà nó đáng lẽ phải mãi thuộc về, cái khát khao tự do, vùng vẫy to lớn đó, gắn bó với quê hương đó không bao giờ tắt lịm trong trái tim của nó :

 

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Qua bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ, chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm cho cuộc sống như là :

Ø Mỗi chúng sanh có những nghiệp riêng, chánh báo gắn liền với y báo, với hoàn cảnh, môi trường, nhiều người trong chúng ta thích sống ở thành thị đầy đủ tiện nghi, không thích sống trong rừng, nhưng cọp thì khác : núi rừng là giang sơn của nó.

Ø  Lòng yêu quê hương, xứ sở, khát vọng tự do, muốn sống với quê hương với tự do hơn là giam hãm, gò bó, xếp đặt, nô lệ cho dù là nhàn hạ, cung cấp đầy đủ mọi thứ.

Ø  Hoài niệm về quá khứ, về cái thuở hào hùng mà bây giờ trải qua thăng trầm, suy sụp và lực bất tòng tâm.

Ø  Tính nhân văn trong bài thơ là khuyên chúng ta cẩn thận có thể chúng ta đang mua vui, giẫm đạp lên những nỗi đau của kẻ khác. Chúng ta có thể hả hê thích thú ngắm nhìn, đùa cợt với kẻ khác khi bị sa cơ thất thế như là xát muối vào nỗi đau khắc khoải của họ.

Ø  Thực ra, chúng ta đều chịu ngục tù giam hãm với các căn dính mắc với sáu trần. Chúng ta bị giam hãm trong dục giới, trong tam giới, trong luân hồi lục đạo, trói buộc không biết ngày nào ra khỏi như bài sám Phật Khánh Đản có đoạn :

“Tình ái si mê
Tù trong lục đạo,
Trăm dây phiền não,
Nghiệp báo không cùng”

Ø  Khi chúng ta không thay đổi được hoàn cảnh thôi thì cách tốt nhất là hãy chấp nhận và thích nghi với  nó còn hơn là cứ mãi trăn trở, khổ đau : quá khứ ơi, đừng giày vò ta nữa! Nếu con cọp đã không thể thoát ra khỏi cũi sắt, thôi thì cũng tạm sống yên ổn qua ngày chứ lồng lộn, cay cú mãi rồi thì vẫn thế. Có những chí sỹ khi bị ở tù lại sống rất thanh thản, chấp nhận cái giá cho lý tưởng, công lý và khát vọng tự do, dân chủ, bình đẳng của mình. Hãy bình thản chấp nhận và sống tốt nhất với hoàn cảnh hiện tại của mình. Địa Tạng Vương Bồ Tát dù sống ở địa ngục nhưng vẫn thong dong tự tại. Cho nên, không đợi chết đi mới vãng sanh cực lạc, giải thoát hay không giải thoát là ở ngay trong cách nghĩ, tâm tưởng của mình, “vô trụ xứ niết bàn”, “tự tánh thanh tịnh niết bàn”. Mặc dù sống ở trần gian với ngũ trược ác thế, nhưng nếu với đại nguyện và chánh đạo thì hiện tại lạc trú, giải thoát ngay bây giờ và tại đây.

 

Nhân dịp đón Xuân Nhâm Dần, 2022, xin góp nơi đây tản mạn đôi dòng bàn về con Cọp. Chúng ta ôn lại và học hỏi nhiều từ tinh hoa của bao thế hệ đi trước và để lại trong các thành ngữ, tục ngữ, ca dao, câu chuyện về con Cọp. Chúng ta hãy áp dụng những đặc tính mạnh mẽ, đầy sức sống đó cũng như những ý tưởng sâu sắc, đẹp đẽ trong nguồn văn học dân gian trên vào cuộc sống của mình thông qua ánh sáng Phật Pháp. Đặc biệt, thế giới vừa trải qua nạn đại dịch Covid 19 nhưng hy vọng những con hổ mới Châu Á sớm khắc phục và phát triễn trỗi dậy, xứng tầm của mình trên thế giới.

Hổ mới châu Á (tiếng Trung: 亞洲小虎 (Á châu tiểu hổ), tiếng Anh: Tiger Cub Economies) là một thuật ngữ trong kinh tế học, dùng để chỉ sự kỳ vọng vào nền kinh tế của các nước đang phát triển là Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines - là những quốc gia công nghiệp mới, có nền kinh tế lớn cũng như giàu tiềm năng trong khu vực Đông Nam Á. Khái niệm này sau đó bổ sung thêm Việt Nam, mặc dù Việt Nam chưa phải là quốc gia công nghiệp mới nhưng có tỉ lệ tăng trưởng hàng năm đang tăng trưởng đều đặn. Nhưng điều quan trọng là làm sao Việt Nam có chính sách phù hợp để dung hòa, để kêu gọi, kích thích được tài năng người gốc Việt khắp nơi trên thế giới chịu đầu tư với tất cả nguồn tài lực, nhân lực, trí lực,… như vậy nước Việt Nam mới không bị có cái gì đó cản trở kiềm hãm mà đủ điều kiện phát triển tối đa, tung hoành hết mức. Đất nước Hoa Kỳ cũng vậy, không thể để tự rớt phong độ, thế thượng phong của mình và sập hầm sập bẫy vì những toan tính ích kỷ, cá nhân, chủ quan, tự tôn và chia rẽ là mầm mống của sự suy yếu, phải khắc phục. Điều quan trọng hơn hết là luật vô thường chi phối tất cả, sức mạnh, uy dũng, thế trên của mình, tất cả rồi sẽ thay đổi, hãy chấp nhận luật vô thường và vượt ra khỏi cái vô thường đó. Bi Trí Dũng với áo giáp nhẫn nhục, đại nguyện và tinh tấn mới giúp một hành giả mãi mạnh mẽ thực sự và từng bước đưa hành giả ra khỏi sự giam hãm của nhà lửa tam giới, ra khỏi vòng luẩn quẩn của luân hồi lục đạo. Hãy tận dụng sức lực của mình đang có trong những việc có ý nghĩa nhất, hãy sống trọn vẹn, phát triển vững vàng, hãy vững chãi, thảnh thơi, thong dong giải thoát, an vui trong mọi hoàn cảnh (tùy sở trụ xứ thường an lạc)

 

Xuân Nhâm Dần, 2022

Thích Đồng Trí

***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4449)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 13649)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13851)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3174)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 11520)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 3056)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6314)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4288)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4616)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
10/12/2012(Xem: 3278)
Đúng là những ngày tháng không quên thật! Sau 30.4.75, tôi bị ở lại Việt Nam là một điều quá ngu xuẩn rồi. Tự mình làm hại mình và hại cả tương lai con cái nữa. Niềm đau này thật không làm sao phôi pha được với thời gian, vết thương trong lòng tôi cứ chua xót ngậm ngùi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]