Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu Đối Thiền Môn

25/11/202109:47(Xem: 9079)
Câu Đối Thiền Môn


bo tat quan am


Câu Đối Thiền Môn



1-Linh giác thường minh, xua tan màn hôn ám, dìu chúng sanh lên thuyền Bát Nhã
-Bửu quang phổ diệu, chiếu khắp chốn trầm luân, dắt muôn loại hướng cõi Niết Bàn

2--Huyền Huệ ngời soi quét sạch mê lầm, thẳng qua bến giác
-Quang Tâm tỏa chiếu xua tan tục luỵ, hoà nhập nguồn chơn

3--Thanh đức minh minh phổ chiếu khổ luân hồi giác ngạn
-Tâm nhiên hạo hạo đồng quy chơn cảnh xuất mê đồ

4-An tâm tự tại, mở cửa từ bi, dẫn chúng sanh quay về chánh pháp
-Lạc đạo tuỳ duyên, hành hạnh hỷ xả, đưa nhân loại hướng đến liên đài

5--Vạn pháp dung thông, động tĩnh tuỳ duyên, tiêu vọng nghiệp
-Thiên tâm trạm tịch, khứ lai tự tại, ngộ chân thiền

6--Chân tâm rực chiếu, vạn kiếp tuỳ duyên hành Phật đạo
-Không tánh ngời soi, ngàn đời tự tại dạo nhân thiên

7-Bảo quang rực chiếu tiêu tai ách
-Ân đức cùng soi sạch khổ sầu

8-Nhân niệm Phật đăng lâm cửu phẩm
-Quả Tham thiền dự đắc vô sanh

9-Nhân niệm Phật lên miền Tịnh Độ
-Quả tham thiền dự cõi Chân Như

10-Chơn tâm trạm tịch vô khứ vô lai tuỳ duyên giáo hoá
-Thiện niệm minh minh bất sanh bất diệt tự tại tiêu dao

11-Chơn giáo thọ, diễn kinh luân, tiếp môn sinh quy vu Vạn Hạnh
-Thiện ân sư, truyền tuệ nghiệp, dẫn hậu bối đáo tại Tây Thiên

12-Trừng tâm dẹp não nêu câu đức
-Sỹ trí tầm chơn diễn đạo thiền

13-Đức từ nhuần thấm già lam, Phật Tử nhỏ lệ tiếc thương
-Trí tuệ rạng soi đất khách, Tăng Ni rơi châu tiễn biệt

14-Quán soi biển tánh không sanh không diệt lìa xa cấu nhiễm
-Âm dội nguồn tâm chẳng có chẳng không bặt dứt ưu phiền

15-Trung ngôn diễn đạo phá mê trực nhận nguồn chơn
-Duệ ngữ hoà âm khai ngộ tiêu dao bến giác

16-Nhật tuệ rạng ngời xua tan màn hôn ám
-Châu tâm tĩnh lặng lắng sạch nghiệp trần ai

17-Phật diễn ba thừa, độ người hữu duyên đồng quy Phật Pháp
-Ân triêm vạn loại, khai đất vô sanh tịnh hướng Niết Bàn

18-Vu Lan đến gợi niềm tin hiếu hạnh
-Báo Hiếu về khơi nét đạo từ bi

19-Bát Nhã rạng ngời dẫn mọi người vào nơi giải thoát
-Liên Đài thanh tịnh đưa muôn loại khỏi chốn trầm luân

20-Tâm thể vốn không đến, không đi , tuỳ duyên hành Phật sự
-Nguyện lực thường chẳng lùi, chẳng sụt, bất biến hộ Thiền môn

21-Quảng khai đại đạo, trụ Pháp Vương gia, để đền ơn Phật Tổ
-Chiếu kiến chân tâm, trì Như Lai tạng, nhằm đáp nghĩa Đàn Na.

22- Nhựt huệ rạng soi, xua tan niềm tục lụy, dựng già lam, di trì đạo pháp
-Anh linh thâm nhập, quét sạch bụi trần lao, xây đức nghiệp, tiếp nối gia phong.

23-Thanh giáo hoằng dương, mở rộng thuyền từ, vun bồi nền đạo nghiệp
-Tâm tông quảng phát, nêu cao hạnh nhẫn, gìn giữ đức thiền lâm

24-Vượt thoát bờ mê xa biển khổ
-Rong chơi bến giác dưỡng tâm nhàn

25-Đêm ngày thanh thản soi nguồn đức
-Năm tháng tiêu dao thắp suối ân

26-Trời trong nắng ấm hoa hương ngát
-Gió mát trăng thanh sông núi thiêng

27-Khai mở nguồn tâm xa kiếp trược
28-Vun bồi bến đức lánh dòng si

29-Niềm đau chợt thả trôi theo sóng
-Nỗi khổ thầm buông cuộn xuống sông

30-Rũ sạch tai ương ngời mắt sáng
Tiêu trừ ách chướng hiển tâm hoà

31-Túc trái oan gia nguyền chặt đứt
-Diệu cơ mật pháp quyết tìm cầu

32-Một sớm thiền tăng nêu ý hỏi
-Bao thu đạo nghiệp rõ phương tầm

33-An tâm tự tại vui niềm đạo
-Lạc đạo tuỳ duyên thỏa ý thiền

34-Xả bỏ phàm tình, quy nẻo giác
Tu theo thánh giáo, chuyển tâm mê

35-Vạn pháp vốn không, bởi do duyên mà có
-Chơn tâm hằng hữu, đâu vì học mới nên

36-Bỏ tục, bỏ mê, tuỳ duyên dễ ngộ
-Ràng danh, ràng tướng, vọng chấp khó thông

37-Niệm Phật, tu tâm, thời thời tránh xa niềm tục
-Trì kinh, dưỡng tánh, khắc khắc lìa khỏi bến mê

37-Tranh danh, đoạt lợi, tăng thêm khổ,
-Dưỡng tánh, tu tâm, giảm bớt sầu.

38-Mõ sớm, chuông khuya, ươm giống tuệ,
-Kinh vàng, kệ ngọc, kết duyên châu.

39-覺 花 心 建 伽 藍 宣 法 語 作禪 詩 度 迷 人 承 當 祖 業
-量 行 願 開 禪 慧 持 佛 號 傳 妙 道 教 化 群 生
-Giác hoa tâm, kiến già lam, tuyên pháp ngữ, tác thiền thi, độ mê nhân, thừa đương tổ nghiệp
-Lượng hạnh nguyện, khai thiền tuệ, diễn kinh luân, trì Phật hiệu, hành diệu đạo, giáo hoá quần sanh

40-Chuông chùa vọng tiếng vơi sầu níu
-Mõ cá vang âm giải não đeo

41-Cội đức vun trồng cây hạnh nở
-Đường mê nguyện dứt lối xuân lai


Tu Viện An Lạc, Ventura, Cali, USA (25/11/2021)

Trúc Nguyên-Thích Chúc Hiền (cảm đề)



facebook
youtube


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4414)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 13329)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13425)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3142)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 11002)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 3012)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6281)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4242)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4553)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
10/12/2012(Xem: 3227)
Đúng là những ngày tháng không quên thật! Sau 30.4.75, tôi bị ở lại Việt Nam là một điều quá ngu xuẩn rồi. Tự mình làm hại mình và hại cả tương lai con cái nữa. Niềm đau này thật không làm sao phôi pha được với thời gian, vết thương trong lòng tôi cứ chua xót ngậm ngùi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]