Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc Kinh Phật, nhớ Bùi Giáng

04/10/202114:30(Xem: 3733)
Đọc Kinh Phật, nhớ Bùi Giáng
Phat thuyet phap 4
Đọc Kinh Phật, nhớ Bùi Giáng
Nguyên Giác
 

Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời về nhà thơ Bùi Giáng. Người viết không có thẩm quyền gì, cả về Phật học và văn học.

Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít. Nếu đúng như thế, hẳn Bùi Giáng phải là một bậc thánh. Cũng cần tự nhắc: chỉ có Đức Phật mới nhận định được rằng người này, hay người kia đã tới mức thế này, hay thế kia. Do đó, hễ tự suy đoán là không nên. Dù vậy, rất nhiều lần, khi đọc Kinh Phật, tôi lại bất chợt nhớ tới nhà thơ Bùi Giáng, người lãng đãng giữa cuộc đời với một cách sống rất dị thường.

Kể từ thời Đức Phật cho tới nhiều thế kỷ sau, các nhà sư là kẻ không nhà, thường mặc áo vá, có khi lang thang hay trú xứ chỉ là nơi bất định, hàng ngày đi khất thực, không làm những việc bất thiện, không nói những lời bất thiện, không nghĩ những niệm bất thiện, và sống với tâm hướng về không tham sân si. Có phải đó là một hình ảnh, rất giống với một Bùi Giáng ở Sài Gòn?

 

Nhà thơ Bùi Giáng đã viết rất nhiều, dịch rất nhiều và đặc biệt làm thơ rất nhiều, như dường chỉ quan tâm thuần túy mỹ học ngôn ngữ. Nhưng không phải. Bùi Giáng quan tâm về lịch sử theo cách riêng, và về Phật học theo cách riêng. Như thế, Bùi Giáng đã làm thơ và bình thơ cũng theo cách riêng. Đôi khi chỉ một câu thơ, mà các nhà phê bình khác có thể xem là bình thường, lại được Bùi Giáng nhìn như là gói trọn mấy trăm bộ kinh Phật. 

Trên blog của nhà văn Lưu Khâm Hưng, nhà thơ Bùi Giáng trong sách “Đi vào cõi thơ” khi nhận định về thơ Hồ Dzếnh đã viết, trích:

“Vì trong đó có ba sử lịch đang gùn ghè nhau. Sử lịch Trung Hoa, sử lịch Việt Nam, sử lịch Chiêm Thành:

Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm

Một câu thơ đơn giản như thế mang toàn khối Như Lai trong mấy trăm bộ kinh Phật. Và thừa dư công lực hư vô để thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học Tây Phương.[...] Hễ thong dong tự tại thả mình theo thơ đó, thì cảm thấy như mình biến làm thiên thần. Mà hễ hì hục cố bàn giải vào, thì bỗng nhiên tức thở, ngột hơi, cảm thấy mình là một con đười ươi lếu láo trơ trẽn, không biết xấu hổ là gì. Lỡ viết ra đôi lời giải thích thì về sau sẽ ân hận, sẽ mòn mỏi máu me kịch liệt” (Bùi Giáng – Đi vào cõi thơ)

Xin mời đọc kỹ, đọc chậm, đọc đi và đọc lại các dòng chữ trên. Bùi Giáng đã quan tâm về những trận thảm sát giữa các dân tộc, nhưng không để tâm bị lôi cuốn vào những dính mắc rất trần gian. Bùi Giáng thương cảm cho một đất nước Chàm bị xóa sổ, nhưng đã đưa vào dòng Kinh Phật để chỉ ra rằng đó là khổ, đó là vô thường, đó là lòng tham giữa các chúng sinh cõi này, giữa những người tự chấp thủ để chia phe rằng có tôi và có ta là Trung Hoa, là Việt Nam, là Chiêm Thành. Bùi Giáng dẫn vào câu thơ, chỉ vào chiếc lá rụng, chỉ vào nụ hoa rơi để nói về đất nước Chàm, và rồi hiển lộ các pháp ấn Như Lai. Và rồi, nhà phê bình văn học Bùi Giáng yêu cầu “hễ thong dong tự tại thì sẽ khinh an, sẽ hỷ lạc… còn như vin vào chữ mà “hì hục cố bàn giải vào” thì sẽ rơi vào cõi “đười ươi lếu láo” chẳng biết tàm quý là gì. Than ôi, cõi này đâu có bao nhiêu người hoằng pháp được như Bùi Giáng: chỉ bình thơ thế gian mà chỉ ra lối vào của Thiền Tông. 

bui giang



Giữ tâm thong dong tự tại, chính là ngay trong đi đứng nằm ngồi mà vẫn tịch mặc vô ngôn. Trong tận cùng, Đức Phật đã dạy như thế. Hễ thong dong tự tại, hễ nhận ra tâm tịch mặc vô ngôn, thì hãy quăng bỏ hết các bè đang vác trên vai đi, chớ còn hỏi làm chi về những cái gọi là pháp học với pháp hành. Trong Thiền sử Việt Nam, có nhà sư Vô Ngôn Thông đã chỉ ra nơi tận cùng tâm thể giải thoát, là nơi tịch mặc vô ngôn. Và rồi bây giờ, Bùi Giáng đã viết rất nhiều lời, cũng để chỉ ra cái-không-lời, cái vô ngôn tịch mặc.

.

Trong Kinh MA-100, Đức Phật đã chỉ vào cõi tâm tịch mặc vô ngôn, theo bản dịch của Tuệ Sỹ, trích: 

Này Ni-kiền, ý ông nghĩ sao, vua Tần-tì-sa-la có đạt được sự tịch mặc vô ngôn như ý, nhân đó mà được hoan hỷ, khoái lạc trong bảy ngày bảy đêm không?’ Ni-kiền đáp, ‘Không, thưa Cù-đàm’. Ta hỏi, ‘Thế có được hoan hỷ, khoái lạc trong vòng sáu, năm, bốn, ba, hai hay một ngày một đêm không?’ Ni-kiền đáp: ‘Không, thưa Cù-đàm’. Ta lại hỏi, ‘Này Ni-kiền, Ta có đạt được sự tịch mặc vô ngôn như ý, nhân đó mà được hoan hỷ, khoái lạc trong một ngày một đêm không?’ Ni-kiền đáp, ‘Được, thưa Cù-đàm’. Ta hỏi, ‘Thế Ta có được hoan hỷ trong vòng hai, ba, bốn, năm, sáu, cho đến bảy ngày bảy đêm không?’. ‘Được, thưa Cù-đàm’.” (1)

 

Lời dạy về nhận ra tâm tịch mặc vô ngôn đã có từ rất xa xưa trong Thiền sử Việt Nam, thí dụ, như với ngài Vô Ngôn Thông (759 (?) – 826), một Thiền sư Trung Quốc, đệ tử của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải. Năm 820, ngài Vô Ngôn Thông qua Việt Nam, ở tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ở đây mấy năm liền sư chỉ quay mặt vào vách toạ thiền và không ai biết tông tích của Sư. Vị trụ trì nơi đây là Cảm Thành thầm biết sư là cao tăng đắc đạo nên hết sức kính trọng. Sắp sửa tịch, sư gọi Cảm Thành đến nói kệ:

Nhất thiết chư pháp giai tòng tâm sinh
Tâm vô sở sinh pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa sở trụ vô ngại
Phi ngộ thượng căn thận vật khinh hứa.

Tạm dịch:

Tất cả các pháp đều từ tâm sinh khởi
[Thấy] tâm không chỗ sinh, [thì] pháp không chỗ trụ
Nếu đạt đất tâm chỗ trụ không ngại

[Nếu] không gặp thượng căn, hãy dè dặt chớ dạy.

Đó là chỉ vào bản tâm tịch mặc vô ngôn. Chỉ nói với người thượng căn thôi. Thấy được tâm thể này thì không cần ngồi, không cần tụng kinh, không cần làm bất cứ gì nữa, vì thấy tâm tịch mặc vô ngôn này là đã lìa xa tất cả những gì gọi là tham sân si. Thấy xong, tức là Thấy Tánh, thì không cần làm gì nữa, chỉ cần bảo nhiệm, chớ để thất niệm.

Thực sự, chữ “tâm” vẫn còn khó hiểu, bởi vì đã gói gọn vào một chữ. Nếu tách ra, để có thể diễn dịch sang cách khác, sẽ thấy dễ hiểu hơn. Thử bắt chước Đức Phật, để tách ra từng phương diện, thử thay các chữ “cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi… cái được tư lường” thay cho chữ “tâm” --- chúng ta sẽ nhận ra lời Đức Phật từ rất xa xưa. Trong Kinh Bahiya, Đức Phật không nói kiểu ngắn gọn là “tâm” mà đã nói rời ra rằng hãy giữ tâm thế này: Thế này, Bahiya. Ông nên tu tập thế này. Trong cái được thấy chỉ là cái được thấy, trong cái được nghe là cái được nghe…” Hễ tâm giữ được như thế, tức khắc các duyên của ba cõi, sáu đường đều biến mất. Và lúc đó là tịch mặc vô ngôn.

Tất cả những hình ảnh, những âm thanh, những mùi hương… nhẫn tới những niệm tưởng đều thực sự như bọt nước, như quáng nắng… không từ đâu thực sự sinh ra, đều từ vô lượng duyên để khởi dậy, và rồi để tịch diệt, như chẳng đi về đâu. Kinh Phật đã nói rằng, cũng như khi dầu đã cạn, khi bấc lụn tàn, ngọn lửa sẽ tắt, và lửa chẳng thể nói là đã đi về đâu. Và lửa đó, chính là các tia lửa được thấy lung linh khi còn dầu, chính là cái mùi hương được ngửi của khói khi còn dầu, chính là hơi nóng được cảm thọ của lửa khi còn dầu… Các pháp đều vô thường như thế. Vậy thì lấy pháp nào để trụ.  Ngay khi tâm đã nhận ra chỗ tịch mặc vô ngôn đó của tâm, thì tức khắc tham sân si chỉ còn là chuyện của những ngày hôm qua. 

Như dường dẫn ra Kinh Phật, Bùi Giáng đã viết rằng cái được thấycái được nghe chỉ là như mộng:

Tôi nhìn tôi ngắm tôi nghe
Nghe là nghe mộng không nghe tò mò 

(Bùi Giáng - bài đầu trong thi tập Đêm ngắm trăng)

Nói về cái được thấy. Cũng như khi chúng ta nhìn trăng, thấy chiếc dĩa tròn lơ lửng trên bầu trời, lúc tròn, lúc khuyết. Thấy trăng, dù trăng trên bầu trời hay trăng ảnh hiện nơi mặt nước, chỉ là tâm nhìn thấy tâm, chỉ là tâm nhìn thấy cái được thấy. Nghĩa là, các pháp vốn tịch mặc vô ngôn, nhưng chỉ có tâm chúng ta động. Đó là lý do khi thấy hai vị tăng đang tranh cãi, người nói rằng gió động, người nói phướn động, thì Lục Tổ Huệ Năng nói rằng chỉ là tâm của hai vị động. 

Nói về cái được nghe. Thí dụ, tiếng đàn tỳ bà. Kinh SN 35.242 (Kinh Đàn Tỳ Bà) ghi lời Đức Phật kể về một vị vua khi nghe tiếng đàn tỳ bà, nhận ra tiếng đàn khả ái, khả lạc, mê ly, say đắm, hấp dẫn nên vua ra lệnh triều đình đi tìm tiếng đàn, chẻ cây đàn tỳ bà làm cả trăm mảnh, nhưng cũng không tìm ra, vì tiếng đàn là do nhiều nhân duyên mới thành. Nghĩa là tất cả pháp đều vô ngã. Nghĩa là, cái được nghe chính là hiển lộ của tâm, ứng vật mà hiển lộ, nhưng có tìm hoài cũng không ra dấu vết. Vì bản tâm, nơi lìa tất cả các chỗ trụ, lìa tất cả sở duyên, thì đó là tịch mặc vô ngôn. Có thể dẫn ra cái được nghe (lá rơi) qua thơ Bùi Giáng, rồi chìm vào sương mù vô ngôn tịch lặng:

Ta đi còn gửi đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù.
(Bùi Giáng - Mai sau em về)

 

Tương tự với mùi hương, tức là cái được ngửi. Bùi Giáng chỉ ra rằng mùi hương đã hiển lộ như không từ đâu, hệt như từ Không mà hiện ra Có, và rồi lãng đãng biến mất như chẳng về đâu. Vì thực sự không có cái gì gọi được là Có hay Không, vì tất cả các pháp chỉ là đang diễn biến, đang hình thành, đang chảy xiết, và không có cái gì gọi được là cái gì, vì tất cả chỉ là ảnh của gương tâm vốn rất mực tịch lặng vô ngôn. Trong thi tập Như Sương, nhà thơ Bùi Giáng qua bài “Lúc ngoảnh lại” đã viết, trích:

Lúc ngoảnh lại - mùi hương bay mất
Lúc quay đi - phảng phất phía sau
Muôn hương muôn sắc muôn màu
Tập thành hậu diện Chiêm Bao Niết Bàn

(Bùi Giáng – Lúc ngoảnh lại)

 

Đối với Thiền Tông, hễ thấy nguồn tâm vốn tịch lặng vô ngôn, thì không cần làm gì nữa, chỉ cần chăn trâu thôi, hãy cứ để mặc các pháp hiển lộ. Theo kiểu riêng, Bùi Giáng cũng nói về cái tịch mặc vô ngôn giữa vô lượng ngôn từ của ông. Phải chăng, Bùi Giáng đã từng mời gọi độc giả lắng nghe cái vô ngôn giữa những gì ông viết? Trên mạng Talawas, nhà văn Mộc Giai đã trích lục nguyên văn từ bài Tựa, do Bùi Giáng viết năm 1965 cho quyển Sương Tỳ Hải, sách ấn hành bởi nxb Phú Vang, Sài Gòn 1966. Bài rất dài, nơi đây chúng ta trích lại phần rất ngắn: 

Ngôn ngữ tái tạo tân thanh. Ngôn ngữ thiết lập thịnh triều của ngôn ngữ. Vô thanh vô tức trong Nếp gấp Bất tư nghi của Vô Ngôn. Nói nghìn lời để dìu cái-không-lời về trong cái-không-nói. Và cái-không-nói cũng thường là cái mệnh đề phụ thuộc giắt cài thêm, lửng lơ như cái-nói-rằng-không là triền miên trong-có vậy.

Thường thấy người ta phàn nàn: thằng nọ viết văn làm thơ lớ mớ, nửa cỏ nửa gai, không gì ra rành mạch cả. Sao nó không viết đơn giản rành rõ như ông Nguyễn Du, như ông Hồ Dzếnh, như ông Khổng, ông Lão, ông Trang? Tưởng như ông Khổng, ông Trang, ông Du, ông Dzếnh viết văn rành mạch đơn giản lắm! Tưởng như người ta đã hiểu rõ cái điều ông Khổng, ông Du đã nói! Và hỡi ôi! Tưởng như ai ai cũng có thể và có bổn phận phải viết như các thánh sống, thần linh kia! Kỳ dị thay! (Bùi Giáng – Không cốc túc âm, 1965) (2)

Rất nhiều Thiền sư gần đây cũng chỉ về một bản tâm tịch lặng vô ngôn. Thầy Thích Thanh Từ, trong "Hoa Vô Ưu - tập 9" qua bài thuyết pháp ở Chùa Vạn Đức, Hội An, năm 2002 đã nói, trích: "Trực chỉ nhân tâm là chỉ thẳng tâm người. Kiến tánh thành Phật là thấy tánh thành Phật. Nếu ta phản quan nhìn lại tâm lăng xăng thì nó lặng, chứng tỏ tâm đó hư dối không thật. Khi tâm hư dối lặng rồi, ta liền nhận ra bản tánh Phật của mình. Thế nên nói trực chỉ, chỉ thẳng chớ không quanh co, vòng vo gì hết."

Thầy Nhất Hạnh cũng thường dạy về sự im lặng hùng tráng, sự im lặng thánh thiện. Thầy Thông Triệt cũng thường dạy rằng hãy ngừng tiếng nói thầm trong tâm. Trong sách Tiểu Chỉ Quán (không nhớ chính xác nhan đề, chỉ nhớ sách dày khoảng 30-40 trang), dạy về Thiền Chỉ Quán mà tôi có cơ duyên đọc và đã say mê Thiền tập theo từ những ngày còn rất thơ trẻ --- để rồi một thời gian sau chợt nhận ra 3 chữ quan trọng trong sách, và còn in mãi trong tâm tới giờ: “Thể chân chỉ” (nương theo cái chân thực mà tịch lặng). 

Nói chuyện như thế, không phải để vin theo các bậc trưởng lão. Thực sự, trong tâm tôi vẫn gần với Bùi Giáng hơn tất cả các nhà sư. Tôi từng nghĩ, nếu gọi Bùi Giáng là Bang chủ chín túi của Cái Bang, đương nhiên tôi hẳn là thiếu niên một hay hai túi đang lẹt đẹt chạy theo họ Bùi. Nói như thế, cũng là tự mình chấp thủ. Tôi thường tránh nói là mình đứng nơi bang nào, tông nào, phái nào, đặc biệt thường tránh những cuộc tranh luận về Thiền hay Tịnh, về Nam Tông hay Bắc Tông. Nếu bất đắc dĩ phải nói thì chỉ xin mượn lời một Thiền sư Trung Hoa để tự nhận là kẻ không nhà (lìa cả danh sắc), không ruộng (lìa cả phước điền của ba cõi), không đất cắm dùi (lìa cả tâm có và tâm không) … thì dò đâu ra tông nào. May ra, nói là Cái Bang thì hợp hơn. Trong cái tâm tịch lặng vô ngôn, trong cái tâm lìa tham sân si… lấy chỗ nào mà gọi là Nam Bắc Đông Tây hay bất kỳ một chữ nào.

Khi mới vào đại học, tôi nghĩ rằng Bùi Giáng mang nhiều tính Phật học hơn là văn học, phần lớn cũng vì biết họ Bùi đang ngụ cư trong Đại Học Vạn Hạnh. Suy luận như thế, bởi vì tôi hoàn toàn không hiểu hết những gì Bùi Giáng viết, dù là thơ. Thực tế, cuốn Tư Tưởng Hiện Đại thì tôi chịu thua, không hiểu nổi…  Nhưng tôi vẫn luôn luôn nghĩ rằng Bùi Giáng viết văn và làm thơ hẳn là có hàm ý đạo. Tôi không hiểu hết tất cả những gì Bùi Giáng viết (cả lúc đó, và cả bây giờ), nhưng nhiều câu thơ họ Bùi mang ý đạo rất thâm sâu, đọc chỉ lờ mờ mà hiểu (và bây giờ, hơn nửa thế kỷ sau đó, nếu gọi là hiểu, cũng e là không chắc). Và tôi nghĩ là mình chỉ hiểu phần nào Bùi Giáng khi đối chiếu với Kinh Phật (dĩ nhiên, xin nhắc rằng, tất cả các dòng chữ trong bài này không có thẩm quyền gì hết). 

Trong bài thơ “Chào Nguyên Xuân” trong thi tập đầu tay, nhan đề Mưa Nguồn (hình như lần đầu in là 1962 hay 1963), đoạn cuối bài là 4 câu nêu lên một cõi tịch lặng trong pháp giới tâm sinh diệt trùng trùng đó:

…Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân

Hay chỉ là trùng hợp thôi? Nhưng, đọc kỹ, vẫn cứ thấy pháp ấn vô thường luôn luôn ẩn hiện trong các dòng thơ Bùi Giáng. Cũng trong thi tập Mưa Nguồn đó, pháp ấn vô thường đã được Bùi Giáng nói ngay trong 4 câu đầu bài thơ “Màu Thiên Thanh Mở” --- không phải vô thường là ngày với tháng, nhưng là chỉ trong một phút, và hình ảnh rất thơ mộng với màu sắc, với suối và đồi, với mây và đất, trích:

Một phút nữa thôi
Và màu sẽ mất
Suối sẽ xa đồi
Như mây xa đất...

Nhiều thập niên sau, khi đã ra hải ngoại, được đọc thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Bùi Giáng – một người như dường không còn tham (không hề tham tiền, không hề tham danh vọng; kể cả không tham nhan sắc vì như dường phụ nữ đã trở thành một biểu tượng, không còn là một hình dáng để mắt ưa nhìn, để tai ưa nghe và để thân thể xúc chạm), không còn sân (không nghe ai kể về chuyện họ Bùi nổi giận với ai), và không còn si (có lúc làm thơ cả trăm bài không ngưng nghỉ; có lúc nào họ Bùi si thì chúng ta không biết rõ). Tôi nghĩ, thế thì, ngay cả khi còn mờ nhạt tham sân si, thì cũng hẳn là một bậc thánh, nếu không phải bậc Bất Lai (không về lại cõi này), hẳn là Nhất Lai (về chỉ một kiếp nữa), thì hẳn là Thất Lai (về 7 kiếp nữa).

Nếu Bùi Giáng mặc áo nhà sư, hẳn là chúng ta sẽ tin rằng họ Bùi là một vị tái sanh. Thậm chí, sẽ có người nói Bùi Giáng là một phiên bản Tế Điên Hòa Thượng (1130 - 1209), một nhà sư Trung Hoa dị thường như dường không có thực. Bùi Giáng cũng thế, vài thế kỷ sau, nhiều người đời sau cũng có thể ngờ vực rằng họ Bùi không có thực, chỉ là nhân vật nửa huyền thoại, nửa đời thực. Chỉ có những người cùng thế hệ với họ Bùi mới tin rằng thật sự có người như thế thơ mộng như thế, gần như gọi được là ly tham sân si như thế.  

Trong Kinh AN 3.34, Đức Phật giải thích về cõi vô sanh của bậc ly tham sân si như thế (và chúng ta có thể thấy phần nào hình ảnh Bùi Giáng nơi đây): 

Phàm nghiệp nào được làm vì không tham, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ không tham, duyên khởi từ không tham, tập khởi từ không tham. Vì rằng tham được từ bỏ, như vậy, nghiệp ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.

Phàm nghiệp nào được làm vì không sân … Phàm nghiệp nào được làm vì không si, này các Tỷ-kheo, sanh ra từ không si … Vì rằng si được từ bỏ, như vậy, nghiệp ấy được đoạn tận, được cắt đứt từ gốc rễ, được làm như thân cây tala, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai.” (3)

 

Xin phép nói thêm một kinh nghiệm rất mực kỳ lạ. Khi đọc Kinh Pháp Cú, nơi Phẩm Bà-La-Môn (Phẩm 26), tôi đã thấy như dường Đức Phật đang nói về nhà thơ Bùi Giáng. Nơi bản dịch của Thầy Thích Minh Châu, xin trích từ phẩm này, như sau (viết theo văn xuôi cho dễ đọc), trích:


385. "Không bờ này, bờ kia. Cả hai bờ không có. Lìa khổ, không trói buộc. Ta gọi Bà-la-môn."

391. "Với người thân miệng ý, Không làm các ác hạnh. Ba nghiệp được phòng hộ, Ta gọi Bà-la-môn."

406. "Thân thiện giữa thù địch. Ôn hòa giữa hung hăng. Không nhiễm, giữa nhiễm trước, Ta gọi Bà-la-môn."

407. "Người bỏ rơi tham sân, Không mạn không ganh tị, Như hột cải đầu kim, Ta gọi Bà-la-môn."

410. "Người không có hy cầu, Đời này và đời sau, Không hy cầu, giải thoát, Ta gọi Bà-la-môn."

412. "Người sống ở đời này. Không nhiễm cả thiện ác, Không sầu, sạch không bụi. Ta gọi Bà-la-môn."

417. "Bỏ trói buộc loài người, Vượt trói buộc cõi trời. Giải thoát mọi buộc ràng, Ta gọi Bà-la-môn."

421 "Ai quá, hiện, vị lai. Không một sở hữu gì, Không sở hữu không nắm, Ta gọi Bà-la-môn." (4)

 

Nơi đây, xin ghi chú thêm về bài kệ 407 dẫn trên, nhóm chữ "như hột cải đầu kim" là nói người sống được cái vô thường, thấy tất cả các pháp đang chảy xiết trên thân tâm mình hệt như hạt cải lơ lửng nơi đầu mũi kim. Bất kỳ ai kinh nghiệm như thế, thì không còn một chữ nào hiện lên trong tâm, vì trên dòng chảy xiết nơi đầu mũi kim, không pháp nào hình thành được để gọi là có một vật. Nghĩa là, "Không phải Phật, không phải tâm, không phải vật" và nơi dòng chảy xiết đó, không còn thấy gì gọi là thiện hay ác nữa (như bài kệ 412 nêu trên); lúc đó, tất cả buộc ràng đều biến mất, vì tất cả chỉ là một pháp Như thị. Có phải nhà thơ Bùi Giáng đã sống với tâm như thế? Nơi đây, không dám trả lời khẳng định, chỉ đoán rằng, họ Bùi hẳn là đã rất gần như thế.

Nguyên Giác, 10/2021 --- Để tưởng niệm ngày Bùi Giáng từ trần 7/10/1998. 

GHI CHÚ:

(1) Kinh MA-100: https://suttacentral.net/ma100/vi/tue_sy

(2) Bùi Giáng, Không cốc túc âm: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php/gn/showFile.php?res=2443&rb=0306

(3) Kinh AN 3.34: https://suttacentral.net/an3.34/vi/minh_chau

(4) Kinh Pháp Cú: https://thuvienhoasen.org/p15a7964/1/pham-21-26 




facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7674)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3556)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3512)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11231)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3967)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3448)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10810)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6816)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12690)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4348)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]