Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc Đỗ Hồng Ngọc: Tôi Học Phật, phiên bản 2

03/09/202111:05(Xem: 7404)
Đọc Đỗ Hồng Ngọc: Tôi Học Phật, phiên bản 2


Đọc Đỗ Hồng Ngọc Tôi Học Phật, phiên bản 2
Đọc Đỗ Hồng Ngọc: Tôi Học Phật, phiên bản 2
Nguyên Giác

Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế. 

Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ; dĩ nhiên ai cũng biết, bởi vì anh nổi tiếng hơn rất nhiều bác sĩ khác, và được báo chí phỏng vấn thường xuyên. Nhưng anh cũng nổi tiếng làm thơ hay từ thời sinh viên. Thơ của anh nhiều đề tài, có cả thơ Vu Lan, thơ tặng mẹ, thơ tình, thơ tặng em bé sơ sinh, thơ tặng bà bầu, và đủ thứ. Trong khi tôi đọc, thưởng thức, và thán phục các vần thơ tuyệt vời của anh, nhưng tận cùng thích nhất vẫn là đọc Đỗ Hồng Ngọc viết về Kinh Phật. Chính nơi lĩnh vực này, họ Đỗ viết gì cũng hay, viết ngắn cũng hay, viết dài cũng hay, viết về Thiền thở cũng hay, viết về ngũ uẩn giai không của Tâm Kinh cũng hay, viết về ưng vô sở trụ của Kinh Kim Cang cũng hay, viết về Kinh Pháp Hoa cũng hay, viết về Kinh Duy Ma Cật cũng hay. Và tôi tin, nhiều thế hệ sau sẽ nhớ tới một Đỗ Hồng Ngọc viết về lĩnh vực này, đó là những gì anh đã đọc, đã hiểu, đã sống và đã ghi xuống các trang giấy trọn một pháp giới học Phật của anh.

Nhiều thế hệ tương lai sẽ không nhớ tới một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và cũng chẳng thắc mắc chuyên ngành của anh có phải tai mũi họng hay nhi khoa, hay nội khoa. Cũng như chúng ta bây giờ chỉ mơ hồ hình dung về một bác sĩ Lê Đình Thám, nhưng dễ dàng nhớ về một cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám đã dịch Kinh Lăng Nghiêm, Đại Thừa Khởi Tín Luận, vân vân… và cũng là người đã sáng lập Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia Đình Phật Tử. Vâng, đời sau hẳn là sẽ nhớ tới Đỗ Hồng Ngọc với tuyển tập Tôi Học Phật, một tuyển tập đã gom chung nhiều tác phẩm đã in rời trước kia: Nghĩ Từ Trái Tim (về Tâm Kinh), Gươm Báu Trao Tay (về Kinh Kim Cang), Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (về Kinh Pháp Hoa), Cõi Phật Đâu Xa (về Kinh Duy Ma Cật), Thấp Thoáng Lời Kinh,  Thoảng Hương Sen, Thiền Tập… 

Làm thế nào Đỗ Hồng Ngọc viết hay như thế? Phước đức, học lực của một đời hẳn là không đủ. Hằn phải là nhiều đời. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó, khi đọc “Tôi Học Phật – phiên bản 2” của Đỗ Hồng Ngọc. Phiên bản 2, bản PDF dày 780 trang, là ấn bản họ Đỗ biên tập lại nhân dịp nằm nhà khi cả nước rơi vào mùa dịch, như lời anh giải thích khi qua email ngày 7/8/2021 khi gửi bản PDF để chia sẻ giữa những người học Phật thân cận:

“Cả gần 3 tháng nay nằm nhà. Tình hình Covi ở Saigon căng thẳng lắm như Hải đã biết. Trong suốt thời gian này, mình chỉ làm một việc là "biên tập" lại toàn bộ cuốn Tôi Học Phật, chủ yếu là một cách ôn tập cho bản thân. Nay tương đồi hoàn chỉnh bản thảo này, mình in ra một ít để kỷ niệm. Bìa do mình tự "dàn dựng", cảm hứng từ Đặc san Liễu Quán (Huế), mang tính "lõm bõm" "lãng mạn" của mình…”

Cũng nên ghi nhận rằng, chưa phiên bản nào phát hành rộng rãi (trừ, in ra một ít để kỷ niệm, như tác giả cho biết), vì bản PDF của “Tôi Học Phật - Phiên bản I” (1) lưu hành trên mạng từ đầu năm 2020, cũng là lúc trùng hợp với khởi đầu đại dịch coronavirus toàn cầu. Lúc đó, nhiều nước trên thế giới chới với vì dịch, kể cả tại Hoa Kỳ; riêng Việt Nam lúc đó bình yên, ngăn chận kịp thời. Nhưng tới mùa hè năm 2021, đại dịch tràn ngập nhiều tỉnh, thành Việt Nam. Thê thảm là ngay ở thành phố Sài Gòn, nơi ngụ cư của tác giả Đỗ Hồng Ngọc. Đó là lý do nhà văn, và là bác sĩ họ Đỗ, mới biên tập lại, bổ túc thêm, để soạn thành “Tôi Học Phật – Phiên Bản 2.”    

Đỗ Hồng Ngọc giải thích về cơ duyên học Phật sau 6 thập niên loanh quanh, trích: “Khi là sinh viên ở Saigon, tôi cũng đọc Bát Nhã, đọc Suzuki, Krishnamurti…nhưng đọc chỉ để mà đọc. Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi. Tôi đọc Tâm Kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra. Và với Tâm Kinh, tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi. Chữ không. Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc” (Tôi Học Phật II, bản PDF, trang 15)

Đó là cơ duyên lớn của tác giả họ Đỗ. Vì có những người tụng Tâm Kinh cả đời, nhưng không hiểu được. Cũng như có người đọc chú giải Tâm Kinh từ nhiều thầy, nhưng lại không vào được. Có người sau nhiều năm không hiểu, lại ngờ vực Tâm Kinh. Rồi có những người chọn thái độ kính nhi viễn chi, dặn nhau là nên tìm những gì cho đơn giản, thích nghi với đời sống hơn, nói sai lầm rằng Tâm Kinh chỉ là kinh để tụng trong chùa. Hiển nhiên là trăm ngã rẽ. Hẳn là tùy cơ duyên.

Nếu chúng ta nhìn về không khí học Phật nơi thế giới Tây phương, cụ thể là tại Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Úc châu… Chúng ta có thể thấy 2 khuynh hướng lớn. Thứ nhất, khuynh hướng thế tục hóa Phật Giáo, làm cho Phật Giáo trở thành một ứng dụng đời thường, biến Phật Pháp thành một pháp mindfulness đơn giản để thư giãn, để chữa bệnh, để làm một liệu pháp nơi góc bệnh viện, thậm chí để làm một pháp tỉnh thức bổ túc cho các tôn giáo khác. Thứ hai, khuynh hướng xuất thế gian, học Phật để bước đi trên đường giải thoát của Phật Giáo, nơi đây lại chia ra ba tông phái lớn: Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa (Phật Giáo Tây Tạng). 

Tuyệt vời nơi Đỗ Hồng Ngọc là chúng sinh muốn nghe chuyện gì thì anh nói chuyện đó. Muốn nghe chuyện ứng dụng thế gian, họ Đỗ trở thành một bác sĩ phân tích về sức khỏe thân và tâm. Muốn nghe chuyện giải thoát, họ Đỗ liền trở thành một người kể lại các kinh nghiệm học Phật mà ai cũng có thể học theo và tự chứng ngộ được.  

Thí dụ, Đỗ Hồng Ngọc, trong tư cách bác sĩ, đã viết về chữa bệnh trong Tôi Học Phật: “đặc biệt là phương pháp “thở chánh niệm” - mà Phật đã dạy từ những bài học đầu tiên sau khi giác ngộ - tôi thấy có thể có hiệu quả trong phòng ngừa và điều trị một số bệnh thời đại, những bệnh dịch không lây, nhưng rất nguy hiểm, gây khổ đau, tàn phế cho nhiều người mà Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) đã luôn cảnh báo trong những năm gần đây, làm giảm chất lượng cuộc sống của con người, chủ yếu do lối sống và môi trường sống đầy căng thẳng, bất an...” (THP 2, trang 30)

Như thế rất thực dụng, bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng có thể áp dụng được. Phương pháp thiền tỉnh thức dùng trong các trường học, và trong các bệnh viện tại Hoa Kỳ hiện nay cũng dựa nhiều vào pháp thở chánh niệm. Khi Phật Pháp ứng dụng để dùng trong trường học và bệnh viện, tất cả yếu tố tín ngưỡng và tôn giáo đều phải gỡ bỏ. 

Nơi mặt ngược lại, khi nói về giải thoát luận, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra những cách nhìn để xúc chạm sâu thẳm tới các pháp ấn: vô ngã, vô thường, khổ, không. Chúng ta có thể nhớ rằng, chư tổ ngày xưa lấy cỗ xe ra để giải thích lý vô ngã, để nói rằng không hề có cái gì gọi là xe nào trong cỗ xe, gọng xe, bánh xe… Và rất hiện đại hóa, Đỗ Hồng Ngọc lấy cái đồng hồ ra để giải thích về lý vô ngã: 

Bị bó rọ, bị thành kiến che khuất, lấp chặt, dần dần ta bị lệ thuộc, bị níu kéo, ta giữ lề, cho “xứng với ta”, với vai ta đóng và bản ngã ta sẽ ngày càng to, càng dầy ra, chính là nguồn gốc của khổ đau. Cái gì có “ta” trong đó thì tạo ra khổ đau. nhà ta, của ta, con ta, người yêu ta và thân ta... Mà cái ta đó, theo cái nhìn Bát nhã Tâm Kinh chỉ là sự kết hợp của những thành tố do duyên mà tụ lại, tương tác, tương sinh, tương hợp, cái này có là do cái kia có, quấn quýt chằng chịt lẫn nhau - như những thành tố tạo nên cái đồng hồ gồm kim, bánh xe, con lắc... và sinh ra tiếng “tích tắc”. “Tích tắc” vốn không có, thực không có, do kết hợp các thành tố riêng lẻ mà có. gỡ bỏ các thành tố ra để tìm lấy tiếng tích tắc (cái ngã) sẽ không thấy đâu nữa! Ráp lại thì có. Cái tiếng tích tắc, không mà có, có mà không, trống rỗng mà tràn đầy là sự vận hành tuyệt diệu của cái đồng hồ. “Chân không” cũng chính là “diệu hữu”. dừng lại ở “không” đơn thuần, như một xóa bỏ, từ chối, hư vô chủ nghĩa là một sai lầm tai hại.” (THP 2, trang 70-71)

Có thể tin rằng, những gì tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết về học Phật sẽ lưu giữ rất lâu trong nền văn học Phật Giáo quê nhà, vì toàn văn tuy rời rạc, nhiều chủ đề, nhưng vẫn xuyên suốt là một tập luận thư để chú giải Kinh Phật. Điều rất khác giữa Đỗ Hồng Ngọc và nhiều vị tiền bối là từ chỗ rất lơ mơ trong 6 thập niên, chứ không phải vào chùa học Phật từ thời thơ ấu, cho nên văn phong của anh là một pháp giới xen lẫn của một nhà văn, một nhà thơ, và là một nhà khoa học. Đây cũng là chỗ độc đáo không chỉ của anh, mà là của rất nhiều người từ một thế hệ học Phật cùng thời. Nghĩa là, Sài Gòn đã là biển lớn, là nơi hội ngộ của những dòng sông tư tưởng. Từ các dòng nước mát này, một (và rồi nhiều) thế hệ đã tắm gội, đã uống, đã học và rồi lại cầm bút để làm cho các dòng sông tư tưởng ngày càng chảy lan ra khắp quê nhà. 

Nơi đó, để Phật hóa cõi nhân gian, một thế hệ học Phật đã từ nhiều cõi nước hẹn nhau bước tới Việt Nam, để học, để tu, để dịch, để dạy và để viết --- trong đó có Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, Thầy Minh Châu, Thầy Nhất Hạnh, Thầy Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát, Ni Trưởng Trí Hải, Ni Trưởng Hải Triều Âm… Và nơi mặt khác, để thi hóa cõi trần gian đầy đau đớn này, để chỉ ra Khổ Đế nhằm làm tiền đề cho Đạo Đế hiển lộ, một thế hệ các văn nghệ sĩ đã hẹn nhau tới Việt Nam để sống và để viết lên những cõi thơ dị thường, trong đó có Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Thích Tánh Tuệ, Nguyễn Lương Vỵ… 

Nói theo Phật Giáo Tây Tạng, họ là những bậc tái sinh. Dĩ nhiên, tác giả Đỗ Hồng Ngọc không đồng ý về nhận xét này. Vì họ Đỗ sẽ dẫn ra ngay rằng anh không hề thấy có cái gì gọi là “cái ta, cái của ta” trong thân ngũ uẩn, thì hà huống gì lại nói rằng có một chàng họ Đỗ hẹn tới Việt Nam để làm thơ, để viết văn, để chú giải Kinh Phật:

Trong cái tánh “Không” đó, tất cả là Vô, hay nói khác đi, tất cả là không có! Không có hình thể, sắc tướng; không có cảm thọ - không có tưởng, hành, thức gì cả. Tóm lại, là vô ngã. Không có cái ta thực mà chỉ có cái ta giả tạm, bọt bèo, cái ta đang ăn uống, nói năng, huênh hoang, tự mãn, tự ti, tham lam, sân si, mê đắm... đủ thứ, đủ kiểu. Cái ta giả này làm khổ cái ta thật. Cái ta giả làm Tôn ngộ Không bị kim cô siết đau muốn chết, còn cái ta thật thì Tôn ngộ Không đã bay bổng biến ra vô số những Tôn ngộ Không khác rồi! Mà đã vô sắc (cái thân xác) thì đương nhiên sẽ vô nhãn (mắt), vô nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (xúc giác), ý (suy tưởng). Toàn thân đã không có lẽ nào có từng thành phần?” (THP 2, trang 92)

Người xưa có nói, uống nước ấm lạnh chỉ tự biết, không nói ra được cho người khác hiểu được. Tương tự, cũng là các cảm xúc khi đọc Đỗ Hồng Ngọc. Đặc biệt, giới trẻ kém tiếng Việt có thể đọc phần tiếng Anh --- “Handing Down The Precious Sword / Gươm Báu Trao Tay” ---  do dịch giả Diệu Hạnh Giao Trinh dịch từ nguyên tác Gươm Báu Trao Tay của Đỗ Hồng Ngọc.

Cuối cùng, xin trích dẫn vài dòng cuối một bài thơ của Đỗ Hồng Ngọc, mà tác giả khiêm tốn gọi là “bài vè” để ghi nhận về pháp Thiền hơi thở, trích:  

“…Hơi thở xẹp xì
Thân tâm an tịnh
Không còn ý tưởng
Chẳng có thời gian
Hạt bụi lang thang
Dính vào hơi thở
Duyên sinh vô ngã
Ngũ uẩn giai không
Từ đó thong dong
Thõng tay vào chợ
.” (THP 2, trang 228)

Độc giả muốn đọc đầy đủ bài “Vè cẩm nang Thiền” vừa dẫn có thể chờ cho sách “Tôi Học Phật – phiên bản 2” phát hành rộng rãi. Bài thơ hướng dẫn Thiền pháp này không có trong ấn bản “Tôi Học Phật – phiên bản 1.(1)

Một điểm đặc biệt trong Tôi Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, và cũng hiếm thấy nơi các tác giả khác: bạn có thể ngưng ở bất kỳ trang nào, ở bất kỳ dòng chữ nào, để tự nghiệm những lời kinh được chú giải ngay trên thân và tâm của bạn. Bạn hãy đọc rất chậm và hãy nghiệm như thế, nơi từng hơi thở của bạn, nơi từng niệm và nơi từng cảm thọ của bạn. Những dòng chữ Đỗ Hông Ngọc viết xuống trong sách cũng là từ các thể nghiệm thực chứng của tác giả. Đó là những dòng trực giải Kinh Phật rất mực trang nghiêm, nơi đó từng dòng chữ đã trở thành những trận mưa hoa để cúng dường chư Phật. Nơi đó là hạnh phúc, là an lạc và là vô lượng công đức.

GHI CHÚ:

(1) Tôi Học Phật – phiên bản 1: https://thuvienhoasen.org/p46a33329/2/toi-hoc-phat  





facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/03/2014(Xem: 5792)
Văn Sinh là một cựu sinh viên Văn Khoa thiên về Triết Đông cho nên tính khí cũng có hơi bất thường. Bất thường ở đây không có nghĩa là “mát dây” mà ưa suy nghĩ về những gì con người không suy nghĩ hoặc những gì mà cả xã hội cho rằng “Ôi dào! Đời là thế, suy nghĩ làm gì cho mệt!”
16/03/2014(Xem: 3559)
Khi ta nở một nụ cười thì một đóa hoa đã “nở trên môi ta”. Khi ta ban phát tình thương tới mọi người thì ta “nở một đóa hoa lòng”. Khi ta tử tế với mọi người ta chúng ta đã trao tặng họ một “đóa hoa thân ái”. Khi ta cứu giúp mọi người thì trong tim ta đã nở “một đóa từ bi”.
09/03/2014(Xem: 4905)
Từ vô thỉ đến nay, giác tánh nơi tạng thức con người thường thanh tịnh trong sáng hoàn toàn, vốn không có sự cấu uế tạp nhiễm, cũng không có những huyễn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Trong giác tánh ấy, không có gì được gọi là sinh hay diệt, vì sanh hay diệt chỉ là giả danh. Vả lại, sanh là tướng huyễn sanh, diệt là tướng huyễn diệt
07/03/2014(Xem: 12051)
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
01/03/2014(Xem: 10629)
Sau mấy ngày họp mặt tại Hamburg, 8 chị em chúng tôi kéo nhau về chùa Viên Giác, Hannover vào chiều ngày 15.02.2014 để dự lễ Rằm Tháng Giêng và lễ ra mắt sách "Những Cây Bút Nữ 2" theo chương trình của Hòa Thượng Phương Trượng đã ấn định. Chúng tôi được ĐĐ. Thích Hạnh Lý xếp cho 3 phòng ngủ đặc biệt ở Tây Đường. Sau chuyến hành trình với nhiều hành lý cồng kềnh, nên đêm đó 8 chị em chúng tôi đã tìm được một giấc ngủ bình an.
06/02/2014(Xem: 17967)
Con người tiếp cận, cảm thọ và nhận biết cuộc đời và thế giới chung quanh qua sáu phương cách như mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, và thức nhận biết các pháp. Trong sáu phương cách đó, trừ thức là phương cách không cần trực tiếp với đối tượng ngoại giới, thì tai nghe tiếng là tiện lợi nhất, bởi vì tai có thể nghe được tiếng từ rất xa và không bị ngăn ngại nhiều như bốn cách còn lại kia.
30/01/2014(Xem: 4096)
Chúng ta ai cũng có khả năng hồi phục năng lượng, nhưng làm thế nào để duy trì khả năng này. Khả năng hồi phục là khả năng lấy lại quân bình từ những thăng trầm của cuộc sống. Bạn đã từng hồi phục như thế nào?
29/01/2014(Xem: 6931)
Không biết trong bảng tử vi của anh Năm Nhiều có phải “Mệnh thân có tử vị cư Mão Dậu gặp Kiếp Không” hay sao mà đời anh lại gắn liền quá mật thiết với sự cung kính dường đó. Phải chứng kiến sự sắp đặt quy mô của bàn thờ nhà anh mới thông cảm được phần nào sự an bài bất khả kháng của Hóa công. Nhà nhỏ lợp tranh đã cũ mèm, gần nát vụn ra và vách đất. Nền nện đất, nứt thủng ở nhiều chỗ. Hai cái cửa sổ lùa và một cửa ra vào bị mái che thấp xuống nên ánh sáng vào quá ít. Nhà thành ra tối hùm hụp suốt ngày. Tôi chưa hề nghe một ngọn gió nào thổi ngang qua đây nên ngồi trong nhà thì phải ngửi mùi hôi thối cố hữu của ngôi nhà, mùi hôi lưu lại từ ngày mẹ anh còn bán nước mắm, dầu lửa,
29/01/2014(Xem: 4713)
Chiều hôm ấy khi đi học về, An thấy trên ven mép sân vừa trồng một hàng cúc vạn thọ. Mừng quá, An không kịp bỏ mũ sách, nhảy tuốt ra nhà sau tìm chú Ba. - Chú Ba ơi! Chú Ba! Chú trồng vạn thọ hả chú? Gần tới Tết rồi hả chú Ba?
23/01/2014(Xem: 17053)
Nhân Sinh Nhật 65 tuổi Tây (1949 – 2014) tức 66 tuổi Ta của Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác, sáng lập Chủ Nhiệm Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc; và kỷ niệm 50 năm xuất gia (1964 – 2014); đồng thời cũng để kỷ niệm 35 năm Báo Viên Giác (1979 – 2014), chúng con/chúng tôi sẽ thực hiện số báo đặc biệt Viên Giác 201, phát hành vào tháng 6.2014, với chủ đề: Hòa Thượng Thích Như Điển – 50 Năm Xuất Gia và Hành Đạo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]