Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn: Màu Vu Lan Giữa Mùa Đại Dịch

19/08/202117:32(Xem: 7620)
Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn: Màu Vu Lan Giữa Mùa Đại Dịch

Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn: Màu Vu Lan Giữa Mùa Đại Dịch

blank
Tranh minh họa, “Digital Art” của Nhuận Pháp


Phật Đản và Vu Lan là hai ngày lễ lớn nhất của Phật giáo trong năm.

Riêng đối với tuổi trẻ thì Phật Đản là gốc rễ mà Vu Lan là hoa lá cành. Gốc rễ giữ cội nguồn và hoa lá cành làm giàu thêm vẻ đẹp.

Phật Đản là ngày lễ trọng đại mừng Đức Phật Thích Ca ra đời. Vu Lan là ngày kỷ niệm Mục Kiền Liên tâm thành hiếu hạnh.

Tích Mục Kiền Liên cứu mẹ đã trở thành biểu tưởng bái vọng của tinh thần báo hiếu tâm linh và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong đạo Phật.

Thuở hoa niên trên quê hương chiến tranh, bài thơ Rằm Tháng Bảy của Lê Mộng Nguyên đã làm rung động tâm hồn non trẻ chúng tôi; thế nhưng bây giờ nhớ lại những câu thuộc lòng tuy không trọn vẹn nhưng nỗi xúc động ngày xưa vẫn còn nguyên vẹn:

Mỗi độ thu sang Rằm tháng bảy,
Chiều xa vang dội tiếng chuông chùa,
Nhắc Mục Kiền Liên con nhớ Mẹ    ,
Mỗi một tâm hồn máu trẻ thơ…

Ngày xưa sống lại trong tâm trí,
Mường tượng hình ai lạnh võ vàng,
Khắc khoải chiều nay cơn gió tạt,
Lạnh mình em bé nhớ Vu Lan…

Đây bát cơm đầy nặng ước mong.
Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng.
Đây tình còn đọng trong tha thiết,
Ân nghĩa sanh thành chưa trả xong…

Cũng như hầu hết tuổi trẻ Phật tử thế hệ Chiến tranh Việt Nam chúng tôi vẫn giữ mãi trong tâm tưởng rằng Vu Lan là mùa Nhớ Mẹ, mùa Báo Hiếu đầy hương hoa. Thuở ấy Vu Lan ở Huế có nắng mùa thu phai dìu dịu, có tiếng chuông chùa trầm lắng vọng âm, có lời kinh báo ân thao thiết nao lòng… Nhưng mãi đến những năm sau 1963, mới có lệ bông hồng cài áo hân hoan và thổn thức trong mùa Vu Lan sau tập bút ký ngắn đầy xúc động “ngọt ngào nước mắt” nhan đề Bông Hồng Cài Áo của Thầy Nhất Hạnh ra đời vào năm 1962. Mùa hiếu đạo ấy tưởng như muôn đời không bao giờ phai cũ bên hơi ấm mẹ hiền. Rồi lịch sử sang trang cùng với chiến tranh, hòa bình, đổi đời, hội ngộ và chia ly đã không ngừng thách đố ấn tượng êm đềm và thánh thiện của Vu Lan. Thách đố chiến tranh, tai trời ách nước có chăng cũng chỉ làm cho “gió có to đèn đường vẫn sáng!”

Nhưng thách thức chưa từng có đã xảy ra năm ngoái (2020) và năm nay. Thế giới con người và khoa học kỹ thuật thế kỷ 21 còn nghiêng đổ thì biết về đâu một lễ hội tâm linh như Vu Lan?! Câu hỏi bình thường thành vấn nạn thời thế là liệu Vu Lan có về được không giữa mùa đại địch Covid-19. Về! Chẳng phải là tổ chức được hay không lễ hội ngày rằm tháng bảy. Về ở đây là liệu lòng người còn yên ắng hay không để nhớ về hiếu hạnh khi cái chết vô hình đang vây bủa lấy thân phận con người. Mỹ, Việt Nam và khắp nơi trên thế giới đang có đầy rẫy những bà mẹ bị đày đọa như Mục Liên Thanh Đề đang là “F0” (người thọ bệnh Covid) trong địa ngục A Tỳ của dịch Covid. Biết bao đứa con hiếu thảo cũng đành thúc thủ buông xuôi tay chờ chết! Tìm đâu ra phương tiện cứu mẹ như ngày xưa được nương nhờ hồng ân hiệp lực mười phương của chư tăng?! Tính từ hôm nay thì còn đúng một tuần lễ nữa là đến ngày Lễ Vu Lan. Các chùa Việt Nam ở Mỹ đều có chương trình cử hành Lễ Vu Lan theo nghi thức truyền thống. Nhưng lương tri tự hỏi: “Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng giữa mùa đại dịch đang tàn phá tận gốc rễ của con người, Vu Lan năm nay sẽ có gì khác hơn thời trước đại dịch?” Câu trả lời và thực tế diễn ra sẽ góp phần định nghĩa cho Văn Hóa Phật Giáo trong tinh thần “Đạo Phật ra đời để cứu khổ chúng sinh”.

blank
Tranh minh họa, “Digital Art” của Nhuận Pháp

Đại dịch Covid kéo dài hơn cả năm nay. Không đất nước nào thoát khỏi tình trạng cù cưa thọ dịch và dập dịch tái đi tái lại như tội nghiệt và trò chơi sinh tử. Các tôn giáo khác thường cung tay cầu nguyện và khi có ai chết vì dịch thì cứ đơn giản gán cho cái “trách nhiệm vô trách nhiệm” là do đấng tối linh thần nào đó… gọi về. Duy chỉ có đạo Phật là lý giải rạch ròi và khách quan hơn cả khi vận dụng thuyết Nhân – Quả và lý Duyên – Nghiệp vào cái biển đời phức tạp có khi đến độ nghịch lý nầy. Người ác bị nghiệp chướng dịch bệnh đánh ngã đã đành; nhưng vẫn có bao nhiêu người tốt, người hay vẫn bị chết vì dịch; trong khi kẻ ác, kẻ gian vẫn sống nhởn nhơ… là vì sao? Vào dịp Vu Lan, sau những màu hoa, màu áo, lời hay, ý đẹp và lễ nghi… nhiều màu sắc, người học Phật thử lắng lòng nhìn thấu lẽ thật của ngày lễ mang tính chất vừa thực tế vừa huyền thoại trọng đại thứ hai trong năm của con nhà Phật theo tín lý Đại Thừa.

Tôn giả Mục Kiền Liên (568-484 Trước Công Nguyên) là biểu tượng của con người hiện thực: Thiện duyên và ác nghiệp thường hằng nối gót bên mhau. Thánh giả Mục Kiền Liên hưởng phước theo lòng hiếu thảo cùng lúc của người con đại hiếu hạnh kiếp nầy hưởng phước; nhưng đồng thời cũng là đứa con đại bất hiếu kiếp trước phải trả nghiệp trong kiếp nầy. Là một trong mười đại đệ tử của Phật với hiếu hạnh tròn đầy: cứu Mẹ ra khỏi hỏa ngục, đắc quả A La Hán, có đệ nhất thần thông ở kiếp nầy nhưng ngài Mục Kiền Liên vẫn chịu án quả báo của nhiều kiếp trước trong tội cảnh là một đứa con bất hiếu! Mục Kiền Liên trước giờ nhập diệt chứng quả A La Hán phải chịu cảnh bị bọn cướp phanh thây để trả nợ cho ác nghiệp đại bất hiếu của mình trong một kiếp xa xưa đã nghe lời vợ ác xúi dục đem bỏ đói cha mẹ của mình trong rừng sâu cho đến chết! Nghiệp có thể giải cho nhẹ bớt nhưng trốn nghiệp hay xóa nghiệp thì… vô kế khả thi!

Bởi vậy, ý nghĩa hiện thực và thâm trầm nhất của ngày lễ Vu Lan là cưu mang và hóa giải. Tuyệt đối không có luật miễn trừ khi con người đương nhiên phải đối mặt với nghiệp quả thiện hay ác do chính mình tác tạo. Con người thường nhật và bậc thánh tăng như Tôn giả Mục Kiền Liên – trước dòng đời xoay chuyển từ vô thủy đến vô chung trùng trùng duyên nghiệp – đều đang chờ thọ nghiệp mà mình đã gieo duyên; hái trái mà mình đã gieo trồng… Gieo gì gặt nấy, chẳng lầm mấy may:

Lưới trời lồng lộng thưa không lọt,
Nhân quả gieo trồng chẳng rủi may!

Gieo ân báo ân, gieo oán báo oán không phải là chuyện xa vời huyền thoại. Con số hơn 200 triệu người bị lây nhiễm và hơn 4 triệu người đã chết và con số mỗi ngày một tăng vì dịch Covid trên toàn thế giới tính đến ngày hôm nay chưa có đường dừng lại. Không dựa trên nguyên lý Duyên Nghiệp để minh giải, con người sẽ hoang mang và tuyệt vọng trước những cái chết của người thân vì dịch Covid nguyên chủng hay biến thể.

Mùa Vu Lan hiếu hạnh – báo ân cha mẹ –  là truyền thống lâu đời của người con hiếu thảo nhưng làm sao tạo được một cơ hội chia sẻ, an ủi và liên tưởng đến mặt phản diện của những đứa con bất hiếu chưa gặp duyên lành để biết ăn năn sám hối trở về với cha mẹ. Dưới mái chùa, những người hưởng thiện nghiệp được đọc kinh, nghe pháp, cài hoa và chia sẻ cảm xúc; trong lúc đó, ngoài cổng chùa bao kẻ điêu linh không nơi nương tựa đang chịu nghiệp chướng nên bản thân mình còn bị quên lãng; nói gì đến cha mẹ, tứ thân! Nhưng tự bản chất, đạo Phật là đạo cứu khổ. Trong ngày đại lễ Vu Lan báo ân Cha Mẹ và cả Bốn Ân Lớn (tứ trọng ân) lẽ nào quên đi những mảnh đời bất hạnh quanh ta. Ước mong trong một tương lai rất gần, ngày Vu Lan không chỉ là dịp thường cúng cô hồn đã khuất vào buổi chiều mà cũng là dịp tiếp trợ tinh thần và tâm linh cho những người cô độc đang sống.

Rồi sẽ đến thế hệ “hậu Covid”. Thuyền trưởng, thủy thủ, mái chèo và hành khách thời trước và trong cơn bão sẽ đổi khác nhiều sau cơn đại cuồng phong về nếp nghĩ cũng như về cách nhìn và điệu sống. Hiển nhiên, ngọn nguồn và sự lý giải về Duyên Nghiệp của Phật lý và pháp sự vẫn không phai cũ với thời gian bởi tính khách quan, công bằng và khoa học về cả Lý và Sự. Mùa Vu Lan năm nay bên cạnh bông hồng đỏ, trắng của những đứa con ngoan còn mẹ hay mất mẹ cài lên áo; ước mong rồi đến một năm nào đó rất gần như sang năm, sẽ có đóa hoa xanh, hoa tím… thêm màu nở từ những cõi lòng thấm nước mắt của những đứa con chưa ngoan biết hối cải, ăn năn trở về với Mẹ.

Sacramento, Cali –  Mùa Vu Lan 2021
Trần Kiêm Đoàn


facebook-1

***
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/02/2015(Xem: 3395)
Em có thói quen cứ những ngày cuối năm thường thích lật những chồng thư cũ của bạn bè ra đọc lại, thích tìm kiếm dư âm của những chân tình mà các bạn đã ưu ái dành cho em. Lá thư của Chị đã gây cho em nhiều bâng khuâng xúc động và ngậm ngùi vô cùng vì đó là những nét chữ kỷ niệm của Chị còn lưu lại trên cõi đời này! Đúng vậy, Chị đã ra đi, bỏ lại đằng sau tất cả những ưu tư phiền muộn của cuộc đời và em đang đọc những dòng chữ của Chị đây.
12/02/2015(Xem: 17254)
Mơ màng cát bụi từ thuở nào mới mở mắt chào đời bên ghềnh biển Quy Nhơn rờn mộng ấy, thầy Đức Thắng sinh năm 1947, suốt một thời tuổi trẻ hay chạy rong chơi qua cánh đồng lúa xanh Phổ Đồng, bồng tênh mấy nẻo đường quê hương Phước Thắng ngan ngát cỏ hoa và thả diều tung bay trên bầu trời Tuy Phước lồng lộng bát ngát đầy trời trăng sao in bóng mộng sông hồ. Rồi lớn lên, thường trầm tư về lẽ đời vô thường sống chết, nên từ giã quê nhà, thao thức vào Nha Trang đi xuất gia theo truyền thống Thiền tông Phật giáo đại thừa. Sau đó vài năm chuyển vào Sài Gòn, tiếp tục con đường học vấn, tốt nghiệp Cao học Triết Đông phương và Phật khoa Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975.
05/02/2015(Xem: 13721)
Thơ là gì ? Thi ca là cái chi ? Có người cắt cớ hỏi Bùi Giáng như vậy. Thi sĩ khề khà trả lời : “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ, nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết.”* Tuy nói thế, nhưng suốt bình sinh trong cuộc sống, thi sĩ chỉ dốc chí làm thơ và sống phiêu bồng, lãng tử như thơ mà thôi.
04/02/2015(Xem: 30391)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
02/02/2015(Xem: 11900)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát, nghe theo lời dạy của sư phụ phải ở ẩn một thời gian rồi sau mới ứng cơ giáo hóa. Ngài được Ngũ tổ đưa đến bến Cửu giang rồi chèo đò qua sông đi về phương nam, đến thôn Tào Hầu (曹候村), phủ Thiều Châu (韶州府) nương náu trong một am tranh. Lưu Chí Lược 刘志略 là một nhà Nho chưa biết ngài kế thừa Tổ vị, thấy ngài tu khổ hạnh khiêm cung, bèn hết lòng hộ trì. Ông có một người cô ruột là Thiền ni Vô Tận Tạng (無盡藏比丘尼) không rõ ngày sanh, chỉ biết bà mất vào năm 676 sau TL. Lúc ấy Lục tổ 38 tuổi.
25/01/2015(Xem: 5663)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
25/01/2015(Xem: 5815)
Buổi chiều ghé ngang bưu điện, ngoài những thư từ tạp nhạp, còn có một gói giấy mỏng như cuốn sách, không biết của ai gửi. Tôi quẳng tất cả vào chiếc thùng giấy sau xe. Trên đường về, có một cú phone đường dài, thì ra anh Dũng, một người quen đã lâu không gặp mặt. Anh bảo vừa gửi tôi một cuốn phim và hỏi đã nhận được chưa. Anh nói lúc xem phim cứ nhớ đến tôi và bất chợt muốn nghe tôi chia sẻ đôi điều gì đó. Tôi không phải tín đồ của điện ảnh, chẳng mấy khi xem, nói gì là nghiện. Nhưng lúc xem xong cuốn phim đó, xem và hiểu theo cách riêng của mình, chẳng hiểu sao cứ bâng khuâng mấy giờ liền...
22/01/2015(Xem: 5884)
Ai sống ở đời cũng phải dẫm lên những buồn vui mà đi về phía trước. Có một ngày tôi chợt phát hiện ra mình có những chuyện ngậm ngùi, có thể từng khiến nhiều người thấy buồn, nhưng tôi nhớ hình như chưa nghe ai nhắc tới. Bỗng muốn kể chơi vài chuyện buồn trong số đó cho vui! Tôi chỉ mới về Tàu hai lần trong mười năm xa xứ. Tôi từng đứng một mình trên bến Thượng Hải để ngắm nhìn con sông Hoàng Phố trong đêm, đêm ở đó thường nhiều gió lạnh. Tôi từng một mình thả bộ trong phố đêm Lệ Giang cho đến lúc quán xá bắt đầu đóng cửa. Nhiều và khá nhiều những nơi chốn đây kia trên xứ Tàu đã hút hồn tôi, đến mức đã rời đi cả tháng trời sau đó còn cứ thấy nhớ như điên.
10/01/2015(Xem: 17035)
Chúng tôi cùng được sinh ra từ một người cha, một người mẹ. Chúng tôi cùng được lớn lên trong một căn nhà, lúc lớn, lúc nhỏ, lúc chỗ này, lúc chỗ kia, nhưng cuộc sống gia đình tương đối êm ấm, thuận hòa. Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy. Vì vậy mà anh chị em ruột thịt chúng tôi thật là đông: đến 7 gái, 7 trai! Bầy con lớn như thổi, thoắt cái mà người chị cả đã trên 70, và cậu em út thì năm nay đúng 50. Anh chị em chúng tôi, mỗi người mỗi ý hướng, mỗi sở thích khác nhau, chọn lấy lối sống của mình theo lý tưởng riêng, hay theo sự xô đẩy của hoàn cảnh xã hội. Nhiều anh chị em đã đi thật xa, không ở gần ngôi từ đường bên ngoại mà mẹ đang sống với chuỗi ngày cuối đời ở tuổi cửu tuần.
05/01/2015(Xem: 3317)
Chiều nay từ cơ quan về nhà, Lâm chở theo một cô gái: Cô Thắm. Ngọc, vợ chàng, không mấy ngạc nhiên vì Lâm đã trình bày với nàng từ hôm qua. Thắm 17 tuổi, cán bộ văn nghệ cơ quan Xây Dựng Nông Thôn mà Lâm là Chỉ Huy Trưởng. Ăn cơm xong đâu vào đó, theo kế hoạch, vợ chồng Lâm kéo về nhà ông bà Kính, thân sinh của Ngọc, chỉ cách đó 10 phút đi bộ. Ông bà Kính cũng không mấy ngạc nhiên về sự hiện diện của Thắm tối nay, vì ông bà cũng được Lâm thưa trước về vấn đề của Thắm. Bà Kính mời Thắm ngồi. Rồi với vẻ thân thiện cởi mở cố hữu, bà vui vẻ bảo Thắm: - Thời buổi này trai thiếu gái thừa, khó dễ người ta làm gì thế? Thắm tưng tửng, giương cặp mắt ngây ngô thật thà đáp lại: - Cũng một vừa hưa phửa thôi chớ!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]