Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh Phương: Nhạc sĩ Hằng Vang thầm lặng cuộc đời để dòng nhạc Phật giáo bay xa

03/02/202107:43(Xem: 13439)
Hạnh Phương: Nhạc sĩ Hằng Vang thầm lặng cuộc đời để dòng nhạc Phật giáo bay xa
nhac-si-hang-vanga-nguoiphattu-com0-2814
Tác giả với nhạc sĩ Hằng Vang (phải)



Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo.

Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.

Tháng 2-1965, với ca khúc Lời sám nguyện, ông được trao giải nhất cuộc thi sáng tác ca khúc Phật giáo lần đầu tiên được GHPGVNTN tổ chức tại nhà hát lớn Sài Gòn. Ban giám khảo gồm những nhạc sĩ uy tín lúc bấy giờ như: Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, Thẩm Oánh, Nghiêm Phú Phi...

Nhân sự kiện này xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Hạnh Phương về nhạc sĩ Hằng Vang để chúng ta hiểu thêm về cống hiến của ông đối với âm nhạc

Phật giáo nói riêng và văn hoá Phật giáo nói chung:

Nhạc sĩ Hằng Vang


Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang. Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của anh. Thiết tưởng không cần bàn cãi bổ khuyết gì thêm.


Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh; rằng: Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc này ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác từ phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của Phật giáo Việt Nam và đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc và sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ của đạo Phật.


Ngay từ khởi nguyên phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ trước đến hiện đại các sử gia viết lịch sử âm nhạc Phật giáo Việt Nam, đã ghi tên Bửu Bác với nhạc lễ Trầm hương đốt, Lê Cao Phan với hành khúc Phật giáo Việt Nam, thì không thể không ghi tên Hằng Vang với ca khúc Ánh Đạo vàng.


Từ thập niên 50, 60 thế kỷ trước, tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam, mỗi mỗi buổi đến chùa sinh hoạt, đã trở thành tập quán, khóa lễ tụng cho toàn đoàn bên trong chánh điện, vị huynh trưởng chủ lễ niêm hương bạch Phật xong là cử hát Trầm hương đốt đồng ca cho tất cả đoàn sinh như là đồng tâm chí thành dâng nén tâm hương cúng dường chư Phật.


Khi ra sân toàn thể đoàn sinh lại hàng ngũ chỉnh tề, bàn tay mặt đưa lên ngang vai, kiết ấn cát tường đồng ca bài ca Sen trắng, là bài đoàn ca chinh thức của Gia đình Phật tử Việt Nam. Sau đó mới phân ra từng đoàn sinh hoạt học tập giáo lý. Riêng ca khúc Ánh Đạo vàng của nhạc sĩ Hằng Vang thì thường được hát lên theo từng bối cảnh sinh hoạt riêng.


Ngay từ tuổi oanh vũ đồng ấu, các em đã thường được nghe các anh chị hát cho nghe, tập cho hát ca khúc Ánh Đạo vàngÁnh Đạo vàng được hát đơn ca, hoặc song ca trong giờ sinh hoạt văn nghệ của đoàn và nhất là thường được hát lên trong những đêm văn nghệ sân khấu… Chính vì thế mà những âm giai cung bậc ca từ của ca khúc Ánh Đạo vàng len lõi, âm thầm dạt dào sống mãi trong tâm thức người Phật tử Việt Nam.

Hát Ánh Đạo vàng là biết Hằng Vang, hát Ánh Đạo vàng là khái quát biết lịch sử Đức Phật. Lời ca tiếng hát của ca khúc giản dị đến mức không thể giản dị hơn, cô đúc không thể cô đúc hơn.


Hát Ánh Đạo vàng là tuổi thơ tôi, và có lẽ của tất cả các đoàn sinh oanh vũ có ngay một khái niệm tổng quát lịch sử Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Và tổng thể khái niệm ấy như một định hình chân lý về cuộc đời đức Phật, về tam thân, báo, ứng và hóa thân Phật, từng ca từ cùa Ánh Đạo vàng khi đã được nghe, khi đã cất lên tiêng hát sẽ lắng sâu vào tiềm thức, lắng đọng mãi thành hạt giông trong tàng thức, để rồi mỗi khi ta cất tiếng hát lên, lập tức ta thấy Phật, thấy đầy đủ tam thân của Ngài.


Duyên lành tao ngộ

Trên dòng chảy thời gian vô tận, không gian vô biên, thân người thì điện ảnh, như tia chớp, tôi quả thực đã rất bất ngờ khi có duyên lành được hạnh ngộ nhạc sĩ Hằng Vang, bất ngờ và bâng khuâng xúc cảm khi mà từ tuổi oanh vũ, mười… mười lăm tuổi mình đã hát thuộc bài hát của anh, nay đã sáu mươi ngoài mình lại có cơ duyên hạnh ngộ anh.

Hôm ấy, anh về thăm gia đình nhà thơ Thanh Trúc tại ấp Thọ Bình, xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, Đông Nai. Anh đã từng biết đến thơ tôi trên các trang báo, tạp chí Phật giáo qua thầy Thanh Trúc anh biết nơi tôi ở “quanh quất đâu đây” vì thế anh điên thoại báo tin và nhờ thầy Thanh Trúc hướng đạo tìm tới tận nhà tôi.


Đã từng biết nhau qua chữ nghĩa, qua lý tưởng tôn thờ, phụng sự chúng tôi không rôm rã xôm tụ chuyện trò cứ chậm rãi từ tốn tâm tình đôi điều gì đó về việc nhà, việc Phật. Nhưng qua buổi sơ ngộ nầy tôi đã thấy được phần nào bản thân người nhạc sĩ từ hòa nầy, tôi xác quyết: Anh Hằng Vang đúng là một người Phật tử chân chính. Và nhất là cả cuộc đời anh tận hiến cho nền âm nhạc Phật giáo Việt Nam, lấy âm nhạc làm phương tiện hàm dưỡng khát vọng hướng tới phương trời cứu cánh giác ngộ, giải thoát khổ đau sanh tử cho mình, cho người.

Xuyên suốt từ thời kỳ chấn hưng Phật giáo đến tận bây giờ, người nhạc sĩ Phật tử chân chính ấy vẫn nhất mực trung trinh với lý tưởng và sự nghiệp ấy.

Nói như thế để nói thêm về anh nhiều hơn, chứ không thể duy nhất chỉ nói đến Ánh Đạo vàng.


Chủ đề Đạo


Là nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, không nhiều thì ít không ai không chạm vào mảng chủ đề tình yêu. Nhạc sĩ Hằng Vang không thể ngoại lệ, anh cũng viết về tình yêu đấy chứ. Nhưng xuyên suốt cuộc đời sáng tác, sáng tạo của anh phần lớn vẫn cứ là lý tưởng từ bi, trí tuệ, dõng mãnh của Đạo Phật làm nền tảng căn bản cho sự nghiệp của mình.


Thử thống kê sơ lược nhan đề những nhạc phẩm cùa anh:

Chủ đề Phật: Ánh Đạo vàng, Ca mừng Phật đản, Cảm niệm Ca tỳ la thành, Ca mừng Thành đạo, Kính mừng Phật Đản (1957), Ngày đẹp trần gian, Trang Phật sử... Mảng chủ đề này cho thấy, nhạc sĩ am tường lịch sử Đức Phật, thấm nhuần tư tưởng đạo lý từ bi và tuệ giác Phật hiện thân vào đời cứu khổ độ sanh, chỉ riêng ca khúc Ánh Đạo vàng thôi đủ cho chúng ta thấy rõ điều đó.

Và xuyên suốt tác phẩm mảng chủ đề này, Nhạc sĩ Hằng Vang với tất cả tài hoa bình dị của mình, với bao âm giai cung bậc ngọt ngào chuyển tải tư tưởng tình cảm ấy đến đại đa số quần chúng Phật tử Việt Nam.

Chủ đề Vu lan: Bồ tát Quán Thế Âm, Hiếu đạo: Mẹ linh cảm tầm thanh, Mẹ hiền Quán thế âm, Mẹ ơi, Mẹ là suối ngọt từ bi, Mẹ quê hương, Mẹ và hơi thu, Trăng quê tình mẹ, Gia tài của Ba...


Hầu hết các văn nghệ sĩ Phật giáo đều có tác phẩm liên hệ chủ đề Vu lan, hiếu đạo, và tín ngưỡng Bồ tát Quán Thế Âm. Ngôn ngữ chủ đề Vu lan trong âm nhạc anh luôn trong sáng, không bi lụy thở than bi đát..anh nhắc nhở người con Phật hướng tâm về báo ân, báo hiếu cha mẹ...

Gương hiếu hạnh: Cao quý thay tình nghĩa vuông tròn Công ơn cha mẹ cho con hình hài Mẹ chăm lo nuôi con khôn lớn Cha dẫn đắt con vững bước vào đời...

Vậy đó, anh không cần hoa ngôn mỹ ngữ, với một ngôn ngữ trong sáng, bình dị, anh trao truyền thông điệp Hiếu hạnh, Vu lan đến với đại đa số người con Phật. Ngay trong bản thân gia đình anh, thiết tưởng chỉ riêng bài hát Gia tài của Ba, anh cũng đã trao truyền được thông điệp nầy cho con cái của anh.

Gia tài của Ba: Có lẽ cảm thụ được tinh thân thông điệp hiếu đạo anh trao truyên cho các con cháu anh, các cháu đã lấy nền tảng tư tưởng hiếu đạo vào đời, và đã tựu thành những hoa thơm quả ngọt dâng lên cha mẹ. Ở đây tôi muốn gợi nhắc đến một tác phâm lớn của nhạc sĩ Hằng Vang, tác phẩm Gia tài của Ba, do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành 18-1-2012, gồm 108 ca khúc do chính cô con gái đầu lòng của anh biên tập và lo lắng, quán xuyến việc xuất bản cho anh, thể hiện tròn đầy hằng tâm hiếu thuận của mình.

Chủ đề Đoàn ca (ca nhạc cho các em Phật tử sinh hoạt): Em mong mùa sen nở (1957) Kết niềm tin, Oanh vũ ngoan, Phát nguyện hoằng dương, Tình đạo, Vui sông lục hòa…


Mảng chủ đề nầy anh đã hiến tặng cho tuổi trẻ gia đình Phật tử Việt Nam một lượng ca khúc đầy đặn trữ lượng Phật chất, hoàn thiện nhân cách người Phật tử cho con cháu chúng ta, trong mọi tình huống sinh hoạt đời thường, lòng trung trinh lý tưởng đem đạo vào đời, Phật hóa phổ gia đình thế tục thành gia đình Phật giáo.


Chủ đề lịch sử Phật giáo Việt Nam: 
Việt Thiền Sơ tổ, Lửa Từ bi, Lửa sáng niềm tin, ánh lửa Nhất Chi Mai... Mảng chủ đề này nhạc sĩ Hằng Vang đã tự dấn thân cuộc sống đời thường của bản thân hòa mình vào dòng chảy lịch sử Phật giáo dân tộc.

Mảng thơ phổ nhạc: phổ thơ của các nhà thơ: Thích Nhất Hạnh,Thích Quang Đạo, Thích Thông Bửu, Thich Chân Tính, Thích Nhật Từ, Huyền Lan,Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Vũ Hoàng Chương, Trụ Vũ, Bùi Giáng, Tống Anh Nghị, Lam Luyến, Minh Thịnh, Nguyễn Thị Ngà, Trần Quang Hưng, Thu Nhi, Quang Minh, Từ Xuân Lãnh, Dzạ Lữ Kiều, Tạ Nghi Lễ, Thanh Trúc, Hạnh Phương, Nguyễn Khánh Phước Hải, Bảo Cường, Tôn Nữ Hỷ Khương, Hoàng Hương Trang, Hồ Đác Thiếu Anh, Vô Biên, Vương Chi Lan, Tiến Thảo, Thu Nhi, Huyền Diệu Hương, Tạ Nghi Lễ, Sơn Cư, Nguyễn Phi Trinh, Hướng Dương, Huyền Linh Tử, Nguyễn Duy Khương, Thiện Hữu, Mặc Giang, Nhất Phương, Siêu Luân, Chiêu Đề, Mặc Giang, Tuyết Hương, Trương Nguyễn,Quang Huy…

Chủ đề tình tự quê hương: Hoài cố đô 1, 2, 3, 4 và 5, Về thăm chùa Huế, Thương về Đông Hà, Hương Ban Mê, Về Phố cổ Hội An, Chùa Hương, Linh Thắng…


Mảng chủ đề tình tự quê hương cho chúng ta thấy anh đi đây đó khá nhiều. Nhưng đi đâu thì đi dấu ấn nhiều thắng tích trong âm nhạc của anh vẫn là những cung bậc giai điệu viết về chùa chiền, những phương sở đượm nhuần tín ngưỡng Phật giáo.

Nhất là về nơi quê quán anh sinh ra, anh có những năm ca khúc Hoài Cố Đô, rồi thì Về Thăm Chùa Huế...


Hạnh Phương 
(2019


 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2015(Xem: 17852)
Mai năm nay nở sớm trước Tết. Qua Tết thì những cánh hoa vàng đã rụng đầy cội, và trên cây, lá xanh ươm lộc mới. Quanh vườn, các nhánh phong lan tiếp tục khoe sắc rực rỡ giữa trời xuân giá buốt. Đêm đến, trời trong mây tịnh, vườn sau đón ngập ánh trăng, tạo một không gian huyền ảo lung linh. Đã không có những ngày xuân rực nắng, không có những đêm xuân ấm cúng tiếng đàn câu ca và những chung trà bằng hữu; nhưng chân tình của kẻ gần người xa, vẫn luôn tỏa sự nồng nàn, tha thiết. Cái gì thực thì còn mãi với thời gian thăm thẳm, vượt khỏi những cách ngăn của không gian vời vợi.
24/02/2015(Xem: 3429)
Em có thói quen cứ những ngày cuối năm thường thích lật những chồng thư cũ của bạn bè ra đọc lại, thích tìm kiếm dư âm của những chân tình mà các bạn đã ưu ái dành cho em. Lá thư của Chị đã gây cho em nhiều bâng khuâng xúc động và ngậm ngùi vô cùng vì đó là những nét chữ kỷ niệm của Chị còn lưu lại trên cõi đời này! Đúng vậy, Chị đã ra đi, bỏ lại đằng sau tất cả những ưu tư phiền muộn của cuộc đời và em đang đọc những dòng chữ của Chị đây.
12/02/2015(Xem: 17513)
Mơ màng cát bụi từ thuở nào mới mở mắt chào đời bên ghềnh biển Quy Nhơn rờn mộng ấy, thầy Đức Thắng sinh năm 1947, suốt một thời tuổi trẻ hay chạy rong chơi qua cánh đồng lúa xanh Phổ Đồng, bồng tênh mấy nẻo đường quê hương Phước Thắng ngan ngát cỏ hoa và thả diều tung bay trên bầu trời Tuy Phước lồng lộng bát ngát đầy trời trăng sao in bóng mộng sông hồ. Rồi lớn lên, thường trầm tư về lẽ đời vô thường sống chết, nên từ giã quê nhà, thao thức vào Nha Trang đi xuất gia theo truyền thống Thiền tông Phật giáo đại thừa. Sau đó vài năm chuyển vào Sài Gòn, tiếp tục con đường học vấn, tốt nghiệp Cao học Triết Đông phương và Phật khoa Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975.
05/02/2015(Xem: 14133)
Thơ là gì ? Thi ca là cái chi ? Có người cắt cớ hỏi Bùi Giáng như vậy. Thi sĩ khề khà trả lời : “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ, nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết.”* Tuy nói thế, nhưng suốt bình sinh trong cuộc sống, thi sĩ chỉ dốc chí làm thơ và sống phiêu bồng, lãng tử như thơ mà thôi.
04/02/2015(Xem: 31335)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
02/02/2015(Xem: 12033)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát, nghe theo lời dạy của sư phụ phải ở ẩn một thời gian rồi sau mới ứng cơ giáo hóa. Ngài được Ngũ tổ đưa đến bến Cửu giang rồi chèo đò qua sông đi về phương nam, đến thôn Tào Hầu (曹候村), phủ Thiều Châu (韶州府) nương náu trong một am tranh. Lưu Chí Lược 刘志略 là một nhà Nho chưa biết ngài kế thừa Tổ vị, thấy ngài tu khổ hạnh khiêm cung, bèn hết lòng hộ trì. Ông có một người cô ruột là Thiền ni Vô Tận Tạng (無盡藏比丘尼) không rõ ngày sanh, chỉ biết bà mất vào năm 676 sau TL. Lúc ấy Lục tổ 38 tuổi.
25/01/2015(Xem: 5742)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
25/01/2015(Xem: 5878)
Buổi chiều ghé ngang bưu điện, ngoài những thư từ tạp nhạp, còn có một gói giấy mỏng như cuốn sách, không biết của ai gửi. Tôi quẳng tất cả vào chiếc thùng giấy sau xe. Trên đường về, có một cú phone đường dài, thì ra anh Dũng, một người quen đã lâu không gặp mặt. Anh bảo vừa gửi tôi một cuốn phim và hỏi đã nhận được chưa. Anh nói lúc xem phim cứ nhớ đến tôi và bất chợt muốn nghe tôi chia sẻ đôi điều gì đó. Tôi không phải tín đồ của điện ảnh, chẳng mấy khi xem, nói gì là nghiện. Nhưng lúc xem xong cuốn phim đó, xem và hiểu theo cách riêng của mình, chẳng hiểu sao cứ bâng khuâng mấy giờ liền...
22/01/2015(Xem: 5944)
Ai sống ở đời cũng phải dẫm lên những buồn vui mà đi về phía trước. Có một ngày tôi chợt phát hiện ra mình có những chuyện ngậm ngùi, có thể từng khiến nhiều người thấy buồn, nhưng tôi nhớ hình như chưa nghe ai nhắc tới. Bỗng muốn kể chơi vài chuyện buồn trong số đó cho vui! Tôi chỉ mới về Tàu hai lần trong mười năm xa xứ. Tôi từng đứng một mình trên bến Thượng Hải để ngắm nhìn con sông Hoàng Phố trong đêm, đêm ở đó thường nhiều gió lạnh. Tôi từng một mình thả bộ trong phố đêm Lệ Giang cho đến lúc quán xá bắt đầu đóng cửa. Nhiều và khá nhiều những nơi chốn đây kia trên xứ Tàu đã hút hồn tôi, đến mức đã rời đi cả tháng trời sau đó còn cứ thấy nhớ như điên.
10/01/2015(Xem: 17413)
Chúng tôi cùng được sinh ra từ một người cha, một người mẹ. Chúng tôi cùng được lớn lên trong một căn nhà, lúc lớn, lúc nhỏ, lúc chỗ này, lúc chỗ kia, nhưng cuộc sống gia đình tương đối êm ấm, thuận hòa. Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy. Vì vậy mà anh chị em ruột thịt chúng tôi thật là đông: đến 7 gái, 7 trai! Bầy con lớn như thổi, thoắt cái mà người chị cả đã trên 70, và cậu em út thì năm nay đúng 50. Anh chị em chúng tôi, mỗi người mỗi ý hướng, mỗi sở thích khác nhau, chọn lấy lối sống của mình theo lý tưởng riêng, hay theo sự xô đẩy của hoàn cảnh xã hội. Nhiều anh chị em đã đi thật xa, không ở gần ngôi từ đường bên ngoại mà mẹ đang sống với chuỗi ngày cuối đời ở tuổi cửu tuần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]