Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trở lại chùa Thơ

01/02/202117:33(Xem: 7606)
Trở lại chùa Thơ


Chữ “chùa” thường dễ khiến người ta liên tưởng đến những… chữ khác như kinh-kệ-chuông-mõ-sư-sãi…Xa hơn, có thể gợi nhớ đến chữ… thơ (vì, tu sĩ và thi sĩ vốn là bằng hữu, trong truyền thống lịch sử Phật giáo). Nhưng đi nhiều nơi trong nước, chùa mà có nhiều thơ được “lên” bia đá, thì có lẽ hiếm nơi có được. Ấy là tại chùa Đây - suối Đó.


suoi do chua day
TT.Thích Tấn Tuệ (nhà thơ Đinh Hồi Tưởng) bên tấm bia thơ - Ảnh: Vưu Khánh Hồng



Ở phía Nam thành phố Phan Thiết khoảng 60km, cách trung tâm thị xã La Gi khoảng bảy cây số, nằm bên dòng suối Đó, là chùa Đây. Địa danh Suối Đó không biết có tự đời nào nhưng chùa Đây là cái tên do vị tu sĩ Tấn Tuệ gọi, khi sư đến đây vào năm 1990, dựng một cái chòi tạm bợ làm nơi tu-học. Chẳng biết “hàm ý” của cái danh xưng đó-đây ấy có phải là một khái niệm trong tư tưởng Phật giáo hay không?

Chùa nằm ở vùng ngoại vi, xa khu vực đô thị, dọc theo dòng suối, cảnh quan đơn sơ của một chốn… ít tiền, không có gì đặc sắc. Chỉ trong sân chùa, có vài chục tấm bia, trên đó có những dòng thơ, bài thơ. Là của bằng hữu và khách xa cảm khái viết nên, khi ghé thăm chùa. Cũng không lạ, bởi vì tu sĩ trụ trì vốn là người làm thơ, có thơ in trên nhiều tờ báo Phật giáovà có nhiều kết giao trong giới làm thơ; cả những “tên tuổi” như Bùi Giáng, Ngân Giang nữ sĩ, Tế Hanh, Huy Cận, Nguyễn Bắc Sơn…

Thơ dường như là một mối… hiểm nguy cho người tu, bởi đối với nhà thiền, sự vọng tưởng là trở ngại lớn trong quá trình nỗ lực đoạn tận vô minh-ái thủ. Hơn ai hết, thầy Tấn Tuệ - Đinh Hồi Tưởng hiểu rõ điều ấy. (Cái bút danh Đinh Hồi Tưởng, nói lái là… Đương Hồi Tỉnh, một phần nào cũng đã“minh thị” cho sự trung thực của chính thầy trong quá trình tu tập. Bởi, ai cũng là phàm phu cả; khác chăng, là ở chỗ có tự nhận biết chính mình hay không? Sư bày tỏ: Làm thế nào để biến cái Có thành ra cái Không, đó chẳng phải là sự nói chơi mà là con đường vô cùng gian khó, phải vượt qua vô vàn cản ngại của tâm thức. Không biết có đủ phước đủ duyên không? Và như thế, thơ vừa không có gì quan trọng nhưng cũng vừa không thể xem nhẹ…

*

Trở lại chùa thơ lần này, thấy nơi đây vẫn là một chốn lan nhã… ít tiền. Ngôi chánh điện nhỏ, diện tích 9x12m khởi công đã ba năm rồi mà vẫn chỉ mới xong phần móng và trụ. Nhưng bốn con rồng đá được đúc-chạm theo phong cách điêu khắccủa bốn triều đại Đinh-Lê-Lý-Trần đang chuẩn bị để gắn trên mấy bậc tam cấp, do một gia đình Phật tử ở Ninh Bình vừa hiến cúng, dường như là biểu trưng cho lòng trân trọng đối với văn hóa dân tộc của vị Thượng tọa trụ trì.

Việc xây dựng ngôi chánh điện nhỏ bé ấy dù chưa xong, nhưng tâm nguyện của thầy là mai-kia-mốt-nọ sẽ xây một cái tháp thơ. Cũng nhỏ thôi, nhưng sẽ là nơi an nghỉ-tưởng nhớ cho những nhà thơ nào có mong muốn được nằm xuống bên dòng suối ấy, trong ngôi chùa này. Cái ý tưởng khá độc đáo nọ, đến nay, vẫn đang còn là… một “tưởng-ý”, vì chưa gặp được người phát tâm cúng dường…

Bên chén trà buổi sớm, Sư trầm ngâm: “Nhiều khi, nói Phật sự nhưng cũng chỉ là thế sự thôi”. Nghe vậy, tôi mừng. Vì sư đã tiến đến chỗ nhận ra được mình và người. Khi kể lại chuyện ấy cho một vị tu sĩ bằng hữu khác, thầy lại cười-bổ-sung: “Nói thế sự, là còn… lịch sự đó. Có khi, không phải Phật sự mà là… ma sự”. Với tư cách là một Phật tử, tôi lại mừng hơn nữa. Vì mạng mạch vững bền-sâu xa của Phật giáo dân tộc Việt Nam chính là nằm ở chỗ này: Đội ngũ trí thức trong hàng ngũ tăng sĩ và sự chuyển hóa tư tưởng của Đức Phật vào trong những cái bình thường nhất của cuộc sống hằng ngày…


thanh-trang-lan-nha-–-khong-gian-nen-tho-ben-dong-suoi-do-1
Chùa đang xây dựng dang dở - Ảnh: Vưu Khánh Hồng


*

Trên một tấm bia thơ, chợt thấm thía tấm lòng chân thành-sâu xa của nhà văn Trần Duy Lý: Con của Mẹ giờ tóc nhiều sợi bạc / Đã vượt qua bao sóng gió thăng trầm / Mẹ, Mẹ ơi “con vua cũng thua con Phật” / Câu nói người xưa giờ con thấy thật rồi / Câu nói người xưa giản dị ít lời / Mà mãi đến cuối dời con mới hiểu…

Còn ở một tấm bia khác, là sự miêu tả cái ước mong của chốn lan nhã này: Như mãi mùa xanh trí nhớ / Bên thời gian lặng chùa Đây / Như niềm không dưng Suối Đó / Sau bao bờ bãi vô cùng…

Riêng đối với “chủ nhân” chùa Đây-suối Đó, thì tất cả chỉ gói lại trong một… câu hát, như cây kim chỉ nam trên Con Đường: Gỡ phương trời ấn vào tâm / Bừng soimặt đất ướp vầng trăng thu / Không bằng hữu, chẳng kẻ thù / Chùa Đây-suối Đó nằm ru hát thiền…

*

Rời chùa thơ; một ngày cuối năm nhẹ. Lấp loáng trên ánh nước dòng suối xuôi về phương Đông, dường như từ những bào ảnh của cuộc phù thế thấp thoáng hiện ra những câu hỏi, không ngừng đặt ra cho con người. Thơ và Đạo, Cảnh và Tâm, Ý và Tình… Những “đối đãi” đó, phải làm ra sao và đến khi nào để trở thành cái sự thực Không-Hai-Khác? Đó không phải là chuyện mà một kẻ phàm phu như người viết bài này dám lạm bàn.

Nhưng chùa thơ thì có thể là nét dịu dàng cho những khách du muốn tìm đến một nơi mộc mạc...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4442)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 13614)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13821)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3170)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 11466)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 3045)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6309)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4275)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4610)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
10/12/2012(Xem: 3272)
Đúng là những ngày tháng không quên thật! Sau 30.4.75, tôi bị ở lại Việt Nam là một điều quá ngu xuẩn rồi. Tự mình làm hại mình và hại cả tương lai con cái nữa. Niềm đau này thật không làm sao phôi pha được với thời gian, vết thương trong lòng tôi cứ chua xót ngậm ngùi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]