Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

121. Kinh Tiểu Không

19/05/202011:30(Xem: 9231)
121. Kinh Tiểu Không

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


121. Kinh TIỂU KHÔNG

( Cùlasunnata sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ 

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua

              Đông Viên – Púp-Bá-Ra-Ma,  (1)

       Mi-Ga-Ra-Má-Tú-Pa-Sá-Đà,  (2)

          Cũng chính là Giảng đường Lộc Mẫu.

 

          Với thiền thời hành đạo trải qua

              Vị Tôn-giả A-Nan-Đa

       Độc cư Thiền tịnh đã qua, buổi chiều

          Vì có điều Tôn-giả thắc mắc

          Nên đi đến hương thất Thế Tôn,

              Đến nơi, đảnh lễ Thế Tôn

       Một bên ngồi xuống, ôn tồn thưa ra :

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Khi Ngài trú nghỉ

          Giữa các vị Sắc-Ká (Thích Ca)

              Thị trấn Na-Ga-Ra-Ka  (3)

       Tại đấy, con được nghe qua, nhớ là

          Ngài dạy : ‘A-Nan-Đa ! Nhờ có

          An trú vào ‘Không’ đó, nên Ta

              An trú rất nhiều an hòa’.

       Con đã nghe, nhớ đúng là điều đây ? ”.

    ______________________________

 

(1) : Pubbaràma : Đông Phương Tự tại thành Xá-Vệ (Savatthi ) do

      Nữ đại thí chủ Visakhà dâng cúng cho Phật và Chúng Tăng.

(2) : Migaramatupasada : Lộc Mẫu giảng đường.

(3) : Nagaraka là tên một thị trấn của người Sakka.  

 

    – “ Điều ông nghe như vầy, đúng cả.            

          A-Nan-Đa ! Ròng rã xưa nay

              Ta nhờ an trú ‘Không’ vầy

       Nên nay an trú đêm ngày nhiều thay !

          Như lâu đài Lộc Mẫu không có

          Voi, bò, ngựa – không có bạc, vàng,

              Đà bà, đàn ông tụ đoàn

       Cũng không có. Chỉ có mang một điều

          Không phải ‘không’, tức điều được chỉ

          Sự nhất trí (tức Ê-Kát-Tăng)           (Ekattam)

              Do duyên Chúng Tỷ Kheo Tăng.

       Cũng vậy, không tác ý phần trải qua

          Thôn tưởng và cũng không tác ý,

          Nhân tưởng – chỉ tác ý tương liên,

              Đến sự nhất trí – do duyên

       Lâm tưởng. Tâm vị ấy liền hân hoan

          Thích thú và trú an, hướng tới

          Lâm tưởng. Rồi nghĩ ngợi như vầy :

 

             ‘Các sự ưu phiền như vầy

       Do duyên thôn tưởng không rày có ra

          Ưu phiền mà do duyên nhân tưởng

          Không có mặt, ảnh hưởng xảy ra

              Chỉ có một ưu phiền là

       Sự nhất trí do lâm tưởng mà tương quan’.

 

          Vị ấy tuệ tri rằng : ‘Tưởng đó

          Thì không có thôn tưởng’. Hay là

             ‘Không có nhân tưởng đó mà !

       Chỉ có một cái này là phải thông :

          Không phải không, là sự nhất trí

          Do đích thị lâm tưởng làm duyên.

              Cái gì không có hiện tiền

       Xem như không có. Tuy nhiên cái còn

          Vị ấy nghĩ : ‘Cái kia có mặt,

          Thì quả thật cái này có rồi’.

              A-Nan-Đa ! Như vậy thời

       Cái này đối với vị nơi như vầy

          Là thật có, không hay điên đảo,

          Sự thực hiện hoàn hảo, tịnh thanh

              Và cũng không tánh, hiểu rành. 

 

       Lại nữa, này các tịnh lành Tỷ Kheo !

          Vị Tỷ Kheo nào không tác ý

          Nhân tưởng, lâm tưởng, chỉ chú tâm

              Vào sự nhất trí trong tầm,

       Do duyên địa tưởng, thì tâm vị này

          Thích thú ngay, trú an, hoan hỷ

          Hướng đến chỉ địa tưởng, trải qua.

 

              Ví như, này A-Nan-Đa !

       Tấm da bò đực căng ra phơi nằm

          Trên hàng trăm cột gỗ như vậy,

          Đặc tánh tấm do ấy đoạn trừ.

 

              Này A-Nan-Đa ! Cũng như

       Tỷ Kheo không tác ý từ có nên

          Với tất cả vật trên đất đó

          Đất khô nỏ, sông hồ, vùng lầy,

              Các cây có thân, có gai,

       Đất bằng và núi. Vị này tương liên

          Tác ý liền vào sự nhất trí,

          Do duyên chỉ địa tưởng  trải sang,

              Vị ấy thích thú, trú an

       Hướng đến địa tưởng, tâm càng vui thay !

          Tuệ tri ngay : ‘Các ưu phiền đó

          Do nhân tưởng không có mặt đây,

              Cũng không có lâm tưởng đây,

       Chỉ có một ưu phiền này tương liên

          Là do duyên địa tưởng này vậy.

 

          Rồi vị ấy tuệ tri như vầy :

             ‘Không có nhân tưởng loại này,

       Không có lâm tường loại này ở đây,

          Chỉ có một cái này quả thật

          Không phải không sự nhất trí này’,

              Do duyên địa tưởng, hiểu vầy

       Cái gì không có mặt đây, tức là

          Vị ấy xem như là không có.

          Nhưng do đó, với cái còn đây

              Vị ấy tuệ tri như vầy :

      ‘Cái kia có thì cái này có ra’.

 

          A-Nan-Đa ! Cái này đối với

          Vị ấy bởi như vậy là duyên

              Thật có, và không đảo điên

       Thực hiện không tánh và tuyền tịnh thanh.

 

          Lại nữa, vị tịnh lành Khất-Sĩ

          Không tác ý lâm tưởng, cùng là

              Không tác ý địa tưởng, mà

       Tác ý sự nhất trí là do duyên

          Không Vô Biên Xứ – tâm vị ấy

          Liền cảm thấy thích thú, hân hoan,

              An trú, hướng đến hoàn toàn

       Không Vô Biên Xứ. Lan man nghĩ liền :

         ‘Các ưu phiền do duyên lâm tưởng

          Hay địa tưởng, không có ở đây 

              Chỉ có một ưu phiền này               

       Là sự nhất trí, có vầy do duyên

          Không Vô Biên Xứ Tưởng. Vị ấy

          Tuệ tri : ‘Loại tưởng đấy thực ra

              Không có lâm tưởng, cùng là

       Không có địa tưởng, có qua chỉ là

          Một cái mà ‘không phải không’ đó,

          Là sự có nhất trí do duyên

              Của Xứ Tưởng Không Vô Biên.

       Cái gì không có hiện tiền ở đây

          Vị đó xem cái này không có.

          Cái còn lại, vị đó biết ngay

             ‘Cái kia có, có cái này’.

 

       A-Nan ! Đối với vị đây như vầy

          Là thật có, không hay điên đảo

          Sự thực hiện hoàn hảo, tịnh thanh

              Vả cũng không tánh, hiểu rành.

 

       Lại nữa, vị Tỷ Kheo lành chánh chân

          Không tác ý về phần địa tưởng,

          Không Vô Biên Xứ Tưởng cũng không,

              Chỉ tác ý sự đồng lòng

       Do Thức Vô Biên Xứ đồng làm duyên.

          Rồi do duyên Vô Sở Hữu Xứ,

          Rồi Tưởng Xứ Phi Tưởng Phi Phi.

 

              Như vầy vị ấy tuệ tri : 

      ‘Các ưu phiền đã mọi thì do duyên

          Thức Vô Biên – Vô Sở Hữu Xứ  –

          Xứ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng này

              Đều không có mặt ở đây.

       Cái gì không có mặt đây, như vầy  

          Vị ấy xem cái này không có.

          Bên cạnh đó, cái còn lại chi

              Ở đây vị ấy tuệ tri :

      ‘Cái kia có, cái này thì có ngay’.

 

          A-Nan này ! Điều này thực tế 

          Với vị ấy là thế, đương nhiên,

              Thật có và không đảo điên

       Không tánh thực hiện hoàn toàn tịnh an.

 

          Lại nữa, này A-Nan ! Vị ấy

          Không tác ý với các tưởng đây :

              Vô Sở Hữu Xứ tưởng này,

       Phi Tưởng Phi Phi Tưởng đây cũng vầy.

          Tác ý ngay với sự nhất trí

          Do Vô Tưởng Tâm Định làm duyên,

              Tâm vị ấy thích thú liền

       Hân hoan, an trú, ưu tiên hướng về

          Để cận kề Vô Tưởng Tâm Định,

          Rồi an tĩnh tuệ tri như vầy :

             Chính ‘Vô tưởng tâm định’ này

       Thuộc hữu vi, do tâm rày tạo nên.

          Phàm cái gì tạo nên do bởi

          Tâm tư hay thuộc bởi hữu vi

              Cái ấy vô thường bất kỳ,

       Chịu sự đoạn diệt. Tuệ tri như vầy :

 

         ‘Do vị này tuệ tri như vậy  

          Thấy như vậy, tâm được an nhiên

              Giải thoát khỏi mọi dục phiền,

       Tâm được giải thoát, thoát liền trói trăn

          Khỏi dục-lậu, khỏi phần hữu-lậu,

          Vô-minh-lậu cũng giải thoát ngay,           

              Và trong sự giải thoát đây

       Là sự hiểu biết rằng ngay lúc này

          Được giải thoát như vầy rốt ráo.

 

          Vị hành đạo tuệ tri : ‘Sự sanh

              Đã tận, Phạm hạnh đã thành

       Việc cần làm đã thực hành đinh ninh.

          Không còn phải tái sinh trở lại’.

 

          Rồi vị ấy tuệ tri : ‘Ưu phiền

              Bởi do dục lậu phan duyên,

       Hữu lậu, vô minh lậu liền hiện nay

          Không có mặt ở đây. Như thế

          Chỉ có thể một ưu phiền đây

              Là sáu nhập duyên mạng này

       Và nó duyên với thân đây rõ ràng’.

 

          Vị ấy tuệ tri rằng : ‘Tưởng đó

          Thì không có dục lậu lộ bày,

              Không có hữu lậu dính giây,

       Không có vô minh lậu này ở đây,

          Chỉ có một cái này được thấy

          Không phải không’. Như vậy có ngay

              Sáu nhập duyên mạng thân này.

       Cái gì vắng mặt nơi này, vị đây

          Xem cái này là không có vậy.

          Đối với cái còn lại, vị này

              Đã có hiểu biết như vầy :  

      ‘Cái kia có khi cái này có đây’.

 

          Này A-Nan ! Cái này đối với

          Vị ấy bởi như vậy là duyên

              Thật có và không đảo điên,

       Thực hiện ‘không tánh’ và tuyền tịnh thanh.

          A-Nan ! Những tịnh lành Phích-Khú

          Hay Phạm-chí quá khứ các đời

              Sau khi đã chứng đạt rồi

       An trú cứu cánh vô thượng, thời tịnh thanh

          Không tánh (Sun-Na-Tăng) (1). Các vị

          Khi chứng đạt đều chỉ trú ngay

              Vào ‘Không tánh vô thượng’ này.

 

       Tương lai, hiện tại phàm ngay các vì

          Sau chứng đạt, tức thì trú hướng

          Vào cứu cánh vô thượng tịnh thanh.

             ‘Không tánh’ siêu việt như vầy

       Do vậy, ngay cả Như Lai khi mà

          Đã chứng đạt, trải qua an trú

          Vào ‘không tánh’ tròn đủ, viên thông.

 

              Này A-Nan ! Nên các ông  

       Cần phải học tập cho thông, hành trì ”.

 

          Nghe đấng Chánh Biến Tri thuyết giảng

          Pháp viên mãn, Tôn-giả A-Nan

              Cùng Chư Tăng trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 121 :  TIỂU KHÔNG   –

CÙLASUNNATA  Sutta )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/08/2014(Xem: 3099)
Bổn phận Thầy tu cứu độ đời Tự Tha cùng độ Sư Phụ ơi ! Nương Phật tìm con đường giải thoát Cùng LY phiền não lạc an đời
06/08/2014(Xem: 6423)
Mẹ : Trong vũng tối thả buồn hiu hắt, Mẹ bây giờ là hạt sương rơi, Sao cầm được đôi dòng nước mắt, Phận lẻ loi trong chốn chợ đời. Con : Còn nợ trần bờ vai đeo nặng, Con u buồn giữa phố đông vui. Vu Lan tới, Phật Đường thầm lặng, Nghe tiếng chuông, nhớ mẹ ngậm ngùi.
02/08/2014(Xem: 3431)
Tôi không đủ ngôn từ để diễn tả nhưng tôi vẫn cố gắng viết để tri ân và đền đáp những bạn bè cùng học sinh Trưng Vương thân yêu đã dành cho tôi những cảm tình thương mến, những tiếp đón quá ư nồng hậu, ngoài sự mong ước của mình trong chuyến đi U.S. vừa qua. Qua bao nhiêu Email thăm hỏi ân cần của Kim Dung rồi của Mai Phương - Hội Trưởng Hội Cựu Nữ Sinh Trưng Vương Nam California – tôi quyết định bay qua Cali. tham dự “Đại Hội Trưng Vương Thế Giới 2014” và sau đó đi Cruise 4 ngày nữa (21 – 24.7.2014).
29/07/2014(Xem: 4355)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế. Trời, vẫn chỉ là một vòm không gian hữu hạn trong tầm mắt con người; biển, là bốn đại dương trên mặt địa cầu; không thể nói là vô biên, vô lượng. Tình thương của cha mẹ dành cho con cái, thì khác: không giới hạn.
24/07/2014(Xem: 9692)
Xuất gia không phải là nghèo Xuất gia là để noi theo Phật Đà Xuất gia lý tưởng cao xa Xuất gia để khỏi bôn ba chợ đời Xuất gia điều tốt tuyệt vời Xuất gia có nghĩa xa rời thế gian Xuất gia giải thoát nhẹ nhàng Xuất gia tự tại muôn ngàn bình yên
19/07/2014(Xem: 13126)
¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ THÔNG ĐIỆP CƯ TRẦN LẠC ĐẠO (TK. Thích Huyền Quang), trang 8 ¨ ĐẠO PHẬT VIỆT TK THỨ I VÀ THỜI KỲ BẮC THUỘC t.t. (HT. Thích Đức Nhuận), trang 9 ¨ BƯỚC XUỐNG TRẦN GIAN, DUYÊN NỢ (thơ Hàn Long Ẩn), trang 13 ¨ QUYẾT NGHỊ ĐẠI HỘI THƯỜNG NIÊN LẦN II, NHIỆM KỲ II (GHPGVNTNHK), trang 14 ¨ HÌNH ẢNH ĐẠI HỘI THƯỜNG NIÊN VÀ AN CƯ TẠI PHV QUỐC TẾ (Hophap.net), trang 16 ¨ PHỤC BÁI THƯỢNG VĂN (BHDTƯ GĐPTVN), trang 18 ¨ NIỀM VUI TU HỌC (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 19 ¨ TRÁCH NHIỆM THUỘC VỀ BẠN (HT. Thích Trí Chơn dịch), trang 20 ¨ NGÀY ĐẦU AN CƯ CỦA PHẬT GIÁO TẠI HOA KỲ (Thích Minh Dung), trang 23 ¨ HÌNH ẢNH KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ LẦN IV (Hoavouu.com), trang 24 ¨ CHÉN TRÀ TÀO KHÊ (Thích Nguyên Tạng), trang 26 ¨ ĐỒI MÂY (thơ Lý Thừa Nghiệp), trang 28
17/07/2014(Xem: 8475)
Trong sự đi hoang nào đó của tư tưởng, cảm xúc, ngôn ngữ, thì bản chất của ngôn ngữ, âm thanh đều là vô thường, giới hạn, và không thật, vì nó không có thực tính độc lập, phải nương với nhau mà thành, nhờ vào căn, trần, thức mở lối nên mới hiện hữu. Người ta tạm định nghĩa, “ngôn ngữ chỉ là một công cụ” dùng để biểu đạt ý nghĩ, trạng thái tâm sinh lý để người khác nhận biết, thấu hiểu, cảm thông. Có nhiều dạng ngôn ngữ, ta có thể tạm chia ra làm hai, ngôn ngữ xuất phát ở bên trong (nội tính) và ngôn ngữ thể hiện ở bên ngoài (ngoại tính). Cho dù phát xuất từ đâu, một khi xử dụng nếu ta không có trí tuệ, chân thật, ái ngữ, lợi hành, lợi người, thì không khéo sự biểu đạt ấy, đôi khi lại là mầm mống, nguyên nhân của những hiểu lầm, ngộ nhận, xích mích, đáng tiếc khác.
24/06/2014(Xem: 4476)
Vào một buổi sáng thật đẹp trời của ngày 26 tháng 11 năm 2012, phái đoàn nhỏ của chúng tôi gồm Thượng Tọa Quảng Đạo (Chùa Khánh Anh, Pháp Quốc), tôi (Chùa Hương Sen, Hoa Kỳ) và vài nam nữ Phật tử nữa được Thượng Tọa Phổ Huân (Trụ trì chùa Pháp Bảo, Sydneys) đưa lên viếng cơ sở thứ hai của chùa Pháp Bảo là Tu viện Đa Bảo, tiểu Bang New South Wales, Úc Châu, và thăm Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc, đang nhập thất tại đây.
21/06/2014(Xem: 10327)
Chúng tôi, Nhóm Học Phật chùa Quang Nghiêm, gồm một số thân hữu và những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong vùng có cơ duyên gần gũi và học hỏi cùng thầy trong nhiều năm qua. Nhân đó, chúng tôi được biết, Thầy là một cây viết thường xuyên trên tập san: THEO DẤU CHÂN XƯA của Phật học viện Huệ Nghiêm, SÀI GÒN trước 1975. Nhưng sau những đợt đốt sách của chính quyền Cộng Sản, THEO DẤU CHÂN XƯA không còn nữa. Càng gần Thầy, chúng tôi nhận thấy những gì Thầy dạy và viết thật thực tế và giản dị trong việc áp dụng Đạo Phật vào đời sống hằng ngày cho chúng ta. Chúng tôi không muốn có sự thất thoát như xưa, nên mạo muội sưu tập một số bài mà Thầy đã viết trong thời gian qua. Đây là một món quà tinh thần của Thầy mà chúng tôi đã rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hàng ngày. Có một điều quan trọng nữa là bài học thân giáo của Thầy: phong cách hiền hòa và đức độ lan tỏa từ Thầy êm đềm như dòng sông Thu Bồn xứ Quảng. Trong bất cứ lúc nào, nếu có dịp, Thầy thường nhắc nhở: “Học Phật có n
16/06/2014(Xem: 33795)
Ngày ấy cách đây 50 năm về trước, vào một sáng đầu mùa hè của năm 1964, tôi một mình đạp xe đạp từ làng Mỹ Hạc, Xã Xuyên Mỹ, Quận Duy Xuyên, trực chỉ xuống chùa Viên Giác tọa lạc tại Hội An, Quảng Nam. Hôm đó là ngày Rằm Tháng 5 âm lịch của năm Giáp Thìn. Một chặng đường dài 50 năm như vậy, nói cho đúng là nửa thế kỷ của một kiếp nhân sinh- đã, đương và sẽ có nhiều điều đáng nói. Hay có, dở có, không như ý cũng có
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]