Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tây Phương Du Ký (truyện kể của Pháp sư Khoan Tịnh)

01/05/202016:25(Xem: 12468)
Tây Phương Du Ký (truyện kể của Pháp sư Khoan Tịnh)

Phat Di DaTay Phuong Du Ky



TÂY PHƯƠNG DU KÝ

TAM THÁNH TÂY PHƯƠNG

Nguyên tác:

Pháp sư KHOAN TỊNH

 

Lược thuật:

LƯU THẾ HOA

 

Việt dịch:

HỮU TỪ, TÂM HẢO

QUAN ÂM TU VIỆN LƯU HÀNH 


LỜI  GIỚI  THIỆU

Trong Luận Tỳ-Bà-Sa của Ngài Long-Thọ Bồ-Tát có lời xưng tán Phật A-Di-Đà đại lược như vầy:

Nếu ai nguyện làm Phật

Tâm niệm A-Di-Đà

Phật liền hiện thân đến

Cho nên tôi quy mạng

Do bổn nguyện của Phật

Nên thập phương Bồ-Tát

Đến cúng dường nghe pháp

Vì thế tôi cúi đầu

Bồ-Tát ở Cực-Lạc

Thân xinh đẹp trang nghiêm

Đủ cả các tướng hảo

Nay tôi quy mạng lễ

Bồ-Tát ở Cực-Lạc

Ngày ngày trong ba thời

Cúng dường thập phương Phật

Nên tôi cúi đầu lạy.

Nếu người trồng căn lành

Nghi thời hoa không nở

Người tín tâm thanh tịnh

Thời hoa nở thấy Phật.

Hiện tại thập phương Phật

Vì muốn độ chúng sanh

Mà ca tụng Di-Đà

Nên tôi quy mạng lễ.

Cõi đó rất trang nghiêm

Thanh tịnh hơn Thiên cung

Công đức rất sâu dày

Nên tôi lạy chơn Phật.

 

Bài kệ này thắp sáng lên niềm tin cõi tịnh độ và cũng xưng tán công đức bổn nguyện của Phật A Di Đà để cho chúng ta thấy bổn nguyện lực của Từ phụ A Di Đà, Bồ Tát, Thánh chúng cõi Tây phương, cảnh giới trang nghiêm diệu mầu của cõi Cực Lạc. Nếu ai là liên hữu tu Tịnh độ sẽ thấy không pháp môn nào dễ tu dễ chứng và mau thành Phật bằng pháp môn niệm Phật.

 

Nên Đức Đại Thế Chí trong Pháp Hội Thủ Lăng Nghiêm đã dạy: "Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tiền cùng đương lai quyết định thấy Phật, gần Phật". Bồ Tát nói: "Phật thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con". Cảm động thay! Chúng ta nên thiết tha nhớ Phật và chí tâm niệm Phật để khỏi phụ lòng nhớ thương của Phật.

 

Trong Tống-Cao-Tăng Truyện Phật Tổ Thống Ký, Đức Quán-Thế-Âm Bồ Tát hiển Thánh dạy Ngài Huệ Nhựt như vầy: "Ông muốn truyền pháp để độ mình, độ người thì nên chuyên niệm TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI A DI ĐÀ PHẬT và phát nguyện vãng sanh, lúc về Cực Lạc thấy Phật và Ta thời được lợi ích lớn, Ông nên biết rằng Tịnh độ pháp môn hơn tất cả các hạnh khác".

 

Đức Văn Thù Bồ Tát cũng dạy: "Các môn tu hành, không môn nào qua môn niệm Phật cả. Niệm Phật là vua trong các pháp môn".

 

Ngài Ấn Quang Đại Sư cũng nói: "Cửu giới chúng sanh rời pháp môn này thời chẳng thể viên thành Phật quả. Thập phương chư Phật bỏ pháp môn này quyết không thể độ khắp quần sanh".

 

Pháp môn tu Tịnh độ là pháp môn siêu thắng cuả Đức Như Lai, mà Từ Phụ Thích Ca đã gọi Ngài Xá Lợi Phất để tuyên bày cảnh giới Tây phương Cực Lạc, cũng vừa là dạy Ngài Xá Lợi Phất, hàng môn đệ tại tiền và để lại một pháp môn phương tiện để tu, để chứng cho tất cả chúng sanh sau này nương theo nguyện lực cuả Phật tu hạnh thù thắng niệm Phật để được vãng sanh.

 

Ôi! Công đức sâu dày cuả đấng Đại Bi Hùng Lực đã làm sáng chói hiện tiền cho môn đệ tu hành chứng đắc không biết bao nhiêu quả Bồ Tát thánh thiện siêu nhân, lại còn hoài bão thương nhớ chúng sanh thấp hèn chìm đắm trong bể khổ sông mê nên mở ra cửa pháp Tịnh độ. Nếu người tin sâu lập nguyện, lập hạnh tu hành chín chắn thì được vãng sanh về nước An Lạc không còn chịu tất cả những sự thống khổ của cõi Ta Bà.

 

Lành thay! Quý hóa thay! Pháp môn Tịnh Độ! Pháp môn này không dành riêng cho tất cả chúng sanh ở trình độ căn bản cơ thấp hèn mà Phật, Bồ Tát, các Đại Sĩ, chư Tôn đều ca tụng khen ngợi là pháp môn thù thắng cuả Như Lai. Từ ngàn xưa đã có biết bao nhiêu vị tu được vãng sanh có chứng tích rõ ràng, cả xuất gia và tại gia.  Pháp môn này nếu ai nguyện làm Phật, tâm niệm A Di Đà, Phật liền hiện thân đến.

 

Thập phương chư Phật, vì muốn độ chúng sanh mà ca tụng A Di Đà.  Hiện nay gần nhất là Ngài Pháp Sư Khoan Tịnh, Ngài đã tu thiền, niệm Phật và may mắn được Bồ Tát Quan Âm hiện đến tiếp độ thần du các cảnh giới Tam Thánh Tây Phương rồi về (từ 25-10 âm lịch 1967 và trở lại nhân gian 08-04 âm lịch 1973). Ngài đã thuyết giảng tại núi Nam Hải Phổ Đà (Tân Gia Ba) tháng 04-1987. Cư sĩ Lưu Thế Hoa ghi chép lại những lời khẩu thuật này thành tập "TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI DU KÝ" bằng chữ Hán, Phật tử Hữu Từ và Tâm Hảo đã dịch ra quốc ngữ.

 

Với tâm tu tịnh độ, tôi nghiên cứu đọc qua thấy có phần lợi ích cho các liên hữu tu tịnh độ. Cũng như thả thuyền ra khơi mà được thuận buồm xuôi gió thì thuyền sẽ đến nơi được an ổn. Người tu pháp môn niệm Phật được duyên may đọc tập truyện này sẽ thấy phấn khởi, duyên tu thêm tinh tấn, tín niệm được kiên cố, hạnh nguyện sớm được viên mãn trên bước đường về Lạc Quốc.

 

Cho nên Ngài Cổ Khê Thiền sư cũng nói lên lời kệ khuyến khích:

 

Đường tu mười vạn một đầu lòng

Ai gọi trời Tây lộ viễn vông

Cảnh Phật chung ngoài tâm thấy được

Chơn dung nơi định vẫn thường trông.

Ngài Tây Trai cư sĩ cũng đã nhắn nhủ đôi dòng kệ:

Sớm về an dưỡng mà ngơi nghỉ

Đừng đối Ta Bà luận có không

Lửa nghiệp khi lừng dùng nước định

Niệm trần lúc khởi gắng ra công

Nén hương thiêng lễ ba ngàn Phật

Xâu chuỗi cần chuyên một tấc lòng

Xót cảnh mẹ già trông tựa cửa

Hững hờ du tử chạy tây đông

Ôi!  Mặc ai lưu luyến lối hiểm sơn khê

Trăng gió cố hương vẫn chờ người viễn khách.

 

Vậy các liên hữu còn chần chờ chi mà không tín, hạnh, nguyện, tinh tấn niệm Phật.

 

Đây cũng bài kệ xưng tán Đức Phật A Di Đà mà Ngài Long Thọ Tôn Giả cũng nói và diễn rõ các giới tánh, cảnh giới Cực Lạc như thế này:

 

Nếu người muốn biết rõ

Chư Phật trong ba đời

Nên quán pháp giới tánh

Tất cả duy tâm tạo.

 

Ngài ví dụ người tu Tịnh độ như một kẻ họa sư kia do một tâm chuyển biến, không lìa nơi ngòi bút mà tạo thành cung Bảo Vương nơi Cực Lạc. Ôi! Thanh tịnh nhiệm mầu huyền diệu thay nếu có duyên niệm Phật, do một niệm lành kia sẽ được ngôi bất thối. Thật là đường muôn ức không xa, ngay đây niệm Phật là đầy đủ.

 

Nguyện tất cả những ai được đọc và nghe thấy quyển "TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC DU KÝ" nầy đều được công đức hồi hướng Tây Phương Trang Nghiêm Tịnh Độ, Đệ tử và chúng sanh về nước An-Dưỡng.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Mùa An Cư năm Tân Mùi 1991

QUAN ÂM TU VIỆN

 

Thành ý kính đề

Ni sư HUỆ GIÁC

 




LỜI  NÓI  ĐẦU

Nội dung chủ yếu quyển này, giới thiệu Ngài Đại Pháp Sư KHOAN TỊNH Trung Quốc.

 

Ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, Ngài ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Củu Tiên, dãy Quế Lạc, Công xá Thượng Đông, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát QUÁN-THẾ-ÂM tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích.

 

Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch năm 1973 (đi từ 25/10 âm lịch 1967) chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói "trên trời 1 ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống nhau, khái niệm thời gian cũng khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.

 

Thế gian lúc ấy không thấy dấu tích Pháp sư đâu, đổ xô đi tìm, tăng lục cả Chùa, tìm khắp cả núi, hằng trăm cái động, lớn có nhỏ có, vẫn không thấy tông tích của Pháp Sư, thậm chí huy động cả các đội trục vớt, đội cứu nạn bãi biển, cứu nạn thác ghềnh vẫn không thấy. Một số thiện tín nhiệt thành, còn tuôn ra các huyện thành, các chợ Tuyên Châu, chợ Hạ Môn, chợ Phước Châu, chợ Nam Bình kiếm tìm. Còn gởi thơ nhờ các tỉnh, huyện lân cận như huyện Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Xuân, Đức Hóa, Phước Thanh, lăng xăng cả mấy năm dài mà vẫn không tin tức gì sáng sủa cả.

 

Thế rồi, mọi người đều nghĩ Pháp Sư đã viên tịch trong lòng thương tiếc vô cùng.  Thật ra từ đầu đến cuối, Pháp Sư chưa hề rời khỏi động Di Lặc nửa bước, do được Phật hộ nhục thể để trong động những sáu bảy năm ròng mà không bị phát hiện, không bị nhục hư, cũng không rõ là được dấu ở đâu (rất có thể dấu ở một dạng không gian khác), về điểm này có các cư sĩ ở đây xác minh được, như tu sĩ Trịnh Tú Kiên chẳng hạn.

 

Suốt quá trình dấn bước đến đất Phật Tây Phương Cực Lạc này, không thể sánh với bất kỳ một cảnh giới nào trong mộng được. Ngài là một vị Tăng đắc đạo, không hề nói chuyện thêu dệt, vọng ngữ, mà cũng chẳng cần vọng ngữ làm gì, hơn nữa cảnh giới mà Pháp Sư thấy được không hề giống cảnh giới nào của thiền định đã thấy, mà cả cảnh giới mà thiền định thấy, cũng chẳng nên đem ra tiếc lộ, nếu không Tam Bộ Thiên Long, mà cả Thiên Ma nữa cũng có thể đến quấy nhiễu được.

 

Đằng này Pháp Sư đã nhận chỉ thị của Đức Phật A DI ĐÀ và Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM nên mới công khai đem chuyện mắt thấy tai nghe trong các cảnh giới của chín phẩm hoa sen nơi Thế Giới Tây Phương Cực Lạc mà chi tiết trình bày ra đây.

 

Phàm những người học Phật đều biết, tội đại vọng ngữ phải xuống ngục Vô Gián, khó có ngày ra, vì thế mà những Pháp Sư diễn thuật về Thế Giới Cực Lạc mà Ngài thân hành bước tới là chuyện xác thực ngàn vạn lần, có tam giới Thần Tiên, tám bộ Thiên Long làm chứng.

 

Ngoài cái thế giới ta đang sống, có một Thế Giới Cực Lạc mà Đức Phật nói trong kinh A Di Đà, đều là thực có, Khoan-Tịnh Đại Pháp Sư là một chứng nhân sống về việc ấy.

 

Bút giả Cư Sĩ Lưu Thế Hoa căn cứ lời kể mà ghi lại, công bố cho thế gian, vừa để hoằng dương Phật Pháp, vừa nguyện chư vị độc giả dốc tin Phật Pháp, một lòng niệm Phật, một lòng hành thiện, cùng bước lên thế giới Cực Lạc.

 


 

TÂY PHƯƠNG DU KÝ

(TÂY-PHƯƠNG CỰC-LẠC THẾ GIỚI DU KÝ)

 

 Đại Pháp Sư THÍCH KHOAN TỊNH khẩu thuật và cư sĩ  LƯU THẾ HOA hoàn chỉnh và ghi lại.

 

+ Một câu chuyện người xưa chưa hề nói, vang động ngàn xưa, chói lọi ngàn sau.

+ Một câu chuyện do chính vị cao tăng thân hành đến nơi, được thấy, được nghe mà diễn nói lại.

 

*  Lược sử:  KHOAN TỊNH Đại Pháp Sư ra đời lúc 10 giờ mùng 7 tháng bảy năm Giáp Tý (1924). 

 

Ngài ra đời trong căn nhà số 140 đại lộ Thành Quan Trấn Đông thuộc Huyện Bồ Điền, Tỉnh Phước Kiến. Là một hộ cư sĩ Phật giáo họ Phan.

 

Cái đêm Ngài sinh ấy, chân trời đông tây hai hướng ánh vàng óng chớp liên hồi khiến cả một cõi đất nơi ấy như vàng ròng óng ánh, vinh diệu, nên lấy đó đặt tên Ngài là Phan Kim Vinh.

 

Lúc nhỏ không học, nhưng tư chất thông minh vượt thường, 7 tuổi đã rời nhà tu tập tại chùa Giáo Trung, Phước Kiến; 15 tuổi chính thức phủi tóc quy y với thầy Hư Vân lão Hòa Thượng tại chùa Tô, hiệu chùa Nam Bình Khai, Phước Kiến. 17 tuổi thọ cụ túc giới tại chùa Nam Hoa, Quảng Đông, lại thọ chánh nhãn Pháp tạng với Thầy Hư Vân lão Hòa Thượng tại núi Vân Cư, Giang Tây, là người truyền đăng, đời thứ 48 của Tông Động Vân, từng làm Trụ trì một số chùa ở Phước Kiến như chùa Đế Bình, chùa Thủy Liêm, chùa Tiên Phật, chùa Năng Nhân, chùa Khai Bình, chùa Mạch Tà, chùa Tam Hội.

 

Lúc Trụ trì ở chùa Tam Hội thuộc Huyện Tiên Du, Phước Kiến năm 1980, Ngài bắt đầu tọa thiền từ ngày 23/12, ngồi riết đến ngày 29/12 mới xả, cọng lại cả 6 ngày rưỡi thiền, đã chấn động cả Huyện Tiên du, lúc ấy thiện tín đến quy y với Ngài có hơn 3000.

 

Năm 1982, đến New York làm hành cước tăng, tuyên dương Phật pháp, đã từng lưu trú lại, làm việc tại Giáo Hội Phật Giáo Bắc Mỹ và được mời làm Hội Trưởng danh dự Giáo Hội Phật Giáo San-Phan, Mỹ Châu, chùa Nhã Na, chùa Quán Thế Âm v.v... Đúng là một vị nho tăng Đắc đạo.

 

*  Đại Pháp Sư thuyết giảng tại núi Nam Hải Phổ Đà (Tân Gia Ba) vào tháng tư năm 1987.

 

Chư vị Pháp Sư, Chư vị Đại Đức, Chư vị cư Sĩ.

 

Kính chào tất cả chư vị,

 

Hôm nay chúng ta có đủ Phật duyên cùng hội tụ một chỗ tại đây, cũng là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ vô số kiếp về trước.  Đó là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ nhiều kiếp tập đặng, do đó hôm nay mới có thể gặp mặt nhau tại nơi này.

 

Câu chuyện mà tôi sắp nói đây là quá trình bản thân tôi hành dấn bước đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ những cảnh giới, tình hình được thấy, được nghe trong thế giới Cực Lạc cùng chư vị.

Tôi sẽ nói thành 5 phần như sau:

 

1. Tôi đến thế giới Cực Lạc bằng cách nào?  Với nhân duyên gì có thể đến nơi ấy được?  Thật ra thì tôi viếng thế giới Cực Lạc trước sau vỏn vẹn chừng 20 tiếng đồng hồ trong ý nghĩ tôi ước đoán, thế mà về tới thế gian này so lại, đã trôi qua 6 năm 5 tháng dài.

 

2. Trên lộ trình tôi đến thế giới Cực Lạc, tuần tự ghé qua địa phương nào, kể thì có động La Hán, trời Đao Lợi, trời Đâu Suất, rồi đến 3 địa điểm chính của thế giới Cực Lạc, Hạ phẩm Liên Hoa, Trung phẩm Liên Hoa (ghi nhận rằng: mỗi phẩm Liên Hoa lại chia làm 3 bậc: Thượng, Trung, Hạ, cho nên hợp thành cửu phẩm Liên hoa). Tôi sẽ nói cùng chư vị thật cặn kẽ cảnh giới của 3 địa điểm chính ấy như thế nào.

 

3. Tôi sẽ nói về tình hình vãng sanh vào 9 phẩm Liên Hoa như thế nào, nói cách khác, nghĩa là tôi sẽ nói cách tu trì như thế nào để được công quả như thế nào của chúng sanh trong thế giới Ta Bà này, mà định đoạt sẽ được vãng sanh vào phẩm nào trong 9 phẩm Liên Hoa ấy, và tình hình sinh hoạt thực tế của chúng sanh trong mỗi phẩm Liên Hoa như thế nào. Thí dụ:  Đặc trưng thân hình, mầu sắc y phục, ăn uống nghỉ ngơi và độ cao, độ lớn của chúng sanh trong từng phẩm Liên Hoa trên ấy như thế nào.

 

4. Tôi sẽ nói về phương pháp tu trì của chúng sanh trong nước Cực Lạc như thế nào, nói dễ hiểu hơn: tức là nói chúng sanh trong từng phẩm một, tu trì như thế nào để được lên từng phẩm, từ dưới lên trên, lên mãi đến thành Phật đạo.

 

5. Sẽ trình bày lại lời của chư vị ở trên ấy mà trước nay tôi biết được; nhắn nhủ tôi khi trở lại Ta Bà này, dặn dò tôi chuyển lời lại chư vị ở Ta Bà như thế nào.

pdfTây Phương Du Ký_Pháp Sư Khoan Tịnh








Ý kiến bạn đọc
09/05/202014:44
Khách
Rất mong đây là ưu tư chân thành về tiền đồ của GHPGVNTN chứ không phải là bài "tiền phong" để chuẩn bị một "lãnh đạo" có tầm chính trị trong một tố chức nào đó để thay thế Thầy Tuệ Sỹ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 11684)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 15999)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 10983)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7405)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19637)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4329)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4072)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3527)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13001)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 2999)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]